BẠN CÓ BIẾT CON ĐƯỜNG TẮT ĐỂ ĐẾN VỚI KPMG?

 BẠN CÓ BIẾT CON ĐƯỜNG TẮT ĐỂ ĐẾN VỚI KPMG? 
 Với nhiều người KPMG có lẽ là một “giấc mơ” trong ngành kế toán – kiểm toán. Để trở thành nhân viên chính thức của KPMG, bạn sẽ phải vượt qua 4 vòng thi vô cùng “KHẮC NGHIỆT” bao gồm:
1. Online application
2. Abilities assessments
3. KPMG Career Launchpad
4. Final stage – Meet our Partners
53661815_2405163976174330_6830419531735760896_n
FTMS SẼ TIẾT LỘ CON ĐƯỜNG TẮT GIÚP BẠN TIẾN GẦN HƠN VỚI KPMG
THAM GIA NGAY CUỘC THI HỌC BỔNG JTS 2019:
 Top 15 bạn đạt giải (dành cho sinh viên năm 3 hoặc năm 4) sẽ được vào thẳng vòng KPMG Career Launchpad (được miễn vòng hồ sơ (Online Application) và vòng offline test (Abilities Assessments)) để có cơ hội được tuyển vào “Chương trình tuyển dụng nhân viên chính thức” hoặc “Chương trình tuyển thực tập sinh” của KPMG năm 2019.
 Nhận học bổng lên tới 50% chương trình ACCA/FIA tại FTMS TP.HCM.
 Click ngay để xem chi tiết:http://tinyurl.com/JTS2019
 Đăng ký tham dự talk show tại trường hoặc theo link: http://bit.ly/talkshowJTS
 Tham gia ngay bài thi online:http://bit.ly/JTS2019
==============
FTMS – The leading training organization in professional Accounting & Finance
 Đăng ký học/tư vấn: https://goo.gl/a79gwj
►๖ۣۜW: www.ftmsglobal.edu.vn
►๖ۣۜE: info@ftmsglobal.edu.vn
 0987 290 321 (Ms.Thảo)
#ACCA #FIA #JTS2019 #FTMSTPHCM #KPMG

4 LỢI THẾ KHI THAM GIA CUỘC THI JTS2019

Nếu bạn còn ngần ngại tham gia cuộc thi học bổng JTS2019 của FTMS TP.HCM, hãy tham khảo 4 lợi thế sau dành cho các thí sinh:

4-loi-ich-khi-tham-gia-JTS-2019_1200x1200
✨ Cơ hội sở hữu học bổng ACCA/FIA danh giá tại FTMS lên đến 50% học phí (Tổng quỹ học bổng lên đến 2 tỷ đồng)

✨ Top 15 bạn đạt giải (dành cho sinh viên năm 3 hoặc năm 4) sẽ được vào thẳng vòng KPMG Career Launchpad (được miễn vòng hồ sơ (Online Application) và vòng offline test (Abilities Assessments)) để có cơ hội được tuyển vào “Chương trình tuyển dụng nhân viên chính thức” hoặc “Chương trình tuyển thực tập sinh” của KPMG năm 2019.

✨ Nhận hỗ trợ gói lệ phí ACCA đặc biệt: Dành cho tất cả sinh viên tham gia cuộc thi Học bổng JTS 2019 khi nộp hồ sơ đăng ký ban đầu với FTMS TP.HCM trước ngày 25/3/2019, sinh viên chỉ cần đóng GBP20 (tương đương 680K) sẽ được nhận ngay gói lệ phí ACCA bao gồm phí đăng ký ban đầu (initial fee), miễn phí thường niên năm 2019 và lệ phí miễn môn chỉ còn GBP20/môn

✨ Được training miễn phí kỹ năng tham dự phỏng vấn

Tham gia ngay: www.goo.gl/DCMhcB

Xem chi tiết về cuộc thi:www.tinyurl.com/JTS2019
==============
FTMS – The leading training organization in professional Accounting & Finance
Đăng ký học/tư vấn: https://goo.gl/a79gwj
►๖ۣۜW: www.ftmsglobal.edu.vn
►๖ۣۜE: info@ftmsglobal.edu.vn
0987 290 321 (Ms.Thảo)
#ACCA #FIA #JTS2019 #FTMSTPHCM

Cuộc đời kì lạ của tỷ phú kiếm tiền cho… người khác

Nếu bạn chưa từng bao giờ nghe nói đến cái tên Nicolas Berggruen thì thật là một thiếu sót. Cuộc sống của tỷ phú Nicolas xoay quanh những công ty của ông hiện diện khắp châu Âu.

Ông là một nhà tỷ phú. Khởi nghiệp chỉ với số tiền 250.000 USD nhưng ngày nay ông là chủ nhân của khối tài sản lên đến hơn 2,3 tỷ USD.

Ngày nay công dân mang hai quốc tịch Mỹ và Đức này thường xuyên di chuyển bằng chiếc máy bay phản lực của mình. Nhưng ông không hề có nhà riêng mà chỉ chuyên thuê phòng tại các khách sạn để ở, bởi thế báo chí gọi ông bằng cái tên khác là “tỷ phú vô gia cư”.

Vài cái áo, dăm cuốn sách… là đủ

Với số tài sản hơn 2,3 tỷ USD, Berggruen thừa khả năng mua những lâu đài lộng lẫy để hưởng thụ cuộc sống nhưng người đàn ông 51 tuổi này không mua hay thuê ngôi nhà nào hết, ông cũng không có xe hơi hay thậm chí là một chiếc đồng hồ đeo tay. Giữ công tác liên lạc cho ông là chiếc BlackBerry cũ. Đi đâu, ông cũng khệ nệ xách một chiếc túi giấy khá lớn.

Vào năm 2000, Berggruen cho bán những bất động sản cuối cùng: ngôi nhà trên đại lộ số 5 ở New York và một hòn đảo tư nhân ở ngoài khơi biển Miami (bang Florida). Ông quan niệm nhà không cần thiết, bởi có những tháng ông phải lui tới 14 thành phố khác nhau để làm ăn. Việc ở không cần lắm nhưng việc đi lại rất quan trọng, vì thế ông mua chiếc máy bay phản lực Gulfstream IV để tiện đi lại.

Nhu cầu cơ bản trong cuộc sống của tỷ phú Berggruen rất đơn giản
Thú vui của Berggruen là đi săn lùng, mua cổ phần của các công ty để bổ sung vào tập đoàn kinh tế của mình. Ông vừa mua 1,5 tỷ USD cổ phần của Burger King, một thương hiệu đồ ăn nhanh nổi tiếng toàn cầu thông qua Công ty Justice Holdings ở Anh của ông.

Lý giải cho cuộc sống “vô gia cư” của mình, Berggruen nói: “Tôi cảm thấy hạnh phúc hơn khi ở trong khách sạn. Tôi không thích gắn bó với những thứ vật chất rườm rà, chỉ vài tờ báo, dăm cuốn sách, vài cái áo sơ mi, áo khoác, áo len… thế là đủ với tôi”.

Ông quan niệm những ai mua hàng xa xỉ chỉ là giàu rởm. Cũng phải nói thêm, Berggruen độc thân và không có con.

Dù khá khiêm tốn trong cuộc sống của mình, nhưng Berggruen không hề tiếc khi bỏ ra hàng chục triệu USD để mua các họa phẩm của danh hoạ Andy Warhol và Damien Hirst rồi ngay tức khắc biếu chúng cho các viện bảo tàng. Ông cũng đứng ra tổ chức các buổi tiệc Oscar hằng năm tại khách sạn Chateau Marmon ở Los Angeles, nơi đây, ông đón tiếp những tài tử hàng đầu Hollywood như Leonardo DiCaprio.

Kiếm tiền để… cho người khác

Nicolas Berggruen chào đời vào năm 1961 tại Paris, có một người anh trai và hai người chị gái cùng cha khác mẹ, tuổi thơ của ông trôi qua êm đềm trong sự giàu sang của gia đình. Cha của ông tên là Heinz Berggruen, vốn là một người Do Thái ở Berlin trốn chạy sự tàn sát của Đức quốc xã tới Tây Ban Nha và kết thân với đại danh họa Pablo Picasso.

Nicolas Berggruen trong một buổi tiệc Oscar tại khách sạn Chateau Marmon
Trong suốt đời mình, cụ Heinz đã trở thành một nhà sưu tập hội họa lớn với nhiều kiệt tác của các danh họa Tây Ban Nha.

Lớn lên ở Paris, cậu thiếu niên Nicolas Berggruen ngay từ nhỏ đã bộc lộ tính cách “nổi loạn”, điều khiến cậu bị trục xuất khỏi một ngôi trường nội trú ở Thụy Sỹ. Trở về lại Paris, Nicolas cố gắng hoàn tất việc học của mình.

Cũng thời gian này, cậu đã bắt đầu đồng cảm cho những người nghèo khổ. Cậu từng tuyên bố: “Tôi sẽ không học tiếng Anh vì nó là ngôn ngữ của chủ nghĩa đế quốc”. Nhưng Nicolas sau đó đã chuyển tới London và New York để học tài chính, anh lập luận về quyết định của mình: “Tôi nói OK vì muốn tìm hiểu về mặt thực của chủ nghĩa tư bản”.

Những năm sau đó, Nicolas Berggruen lao đầu vào kinh doanh và gặt hái nhiều thành công đáng kể từ số vốn 250.000USD mà ông bố Heinz cho vay. Sau chặng đường dài kiếm hàng tỷ USD, Berggruen đột nhiên cảm nhận rằng ông “chán” sống trên đống tiền của chính mình, ông lập luận: “Tôi không muốn lệ thuộc vào tiền bạc, nghĩ nhiều đến nó là cả một gánh nặng.

Hành động có ích cho xã hội mới giá trị và trường tồn mãi mãi”. Nicolas đang ấp ủ để lại toàn bộ tài sản của mình cho hoạt động từ thiện và bộ sưu tập nghệ thuật của mình cho một bảo tàng mới ở Berlin.

Theo doanhnhan360

Nguyên nhân thất bại của các công ty kiểm toán Mỹ

Enron, một công ty năng lượng lớn nhất nước Mỹ phá sản kéo theo công ty tư vấn kt hàng đầu thế giới Arthurr Andersen sụp đổ. Đây chỉ là một minh chứng sống động của sự thất bại trong ngành kiểm toán Mỹ. Sai lầm của ngành kiểm toán Mỹ chủ yếu là do nhân viên kiểm toán (CPA) và các DN bị kiểm toán “ăn rơ” cùng nhau. Các CPA vốn là những người thiếu tính độc lập và ngay chính bản thân họ cũng không biết giữ tính thận trọng trong khi tác nghiệp và cả sự hoài nghi cần thiết.

 

Theo nghiên cứu về những cuộc kiểm toán thất bại tại các công ty được kiểm toán của Mỹ, các nguyên nhân chính là:

1. Kẽ hở trong hệ thống kế toán.

Việc biển thủ tiền trong một công ty của Mỹ không được coi là làm trái các quy định trong hệ thống kế toán; nhưng việc sửa chữa lại dữ liệu kế toán thì ngược lại, theo các quy định trong hệ thống kế toán, đó là sự vi phạm nghiêm trọng. Nhưng miễn đó là sự trùng hợp tình cờ với dữ liệu thực tế thì lại được chấp nhận. Việc lợi dụng khuyết điểm của hệ thống để khiến cho các nhà đầu tư bị lỗ, hiện tượng này thường bị các nhân viên CPA bỏ qua trong quá trình kế toán. Trường hợp của Enron Corp là ví dụ điển hình. Việc thiết lập tiêu chuẩn kế toán có thể được chia làm 2 loại: dựa trên các luật lệ hoặc dựa trên nguyên tắc. Mỗi phương thức có điểm mạnh là điểm yếu nhất định.

Điểm nổi trội của tiêu chuẩn kế toán dựa trên các luật lệ là chỉ cần sử dụng kỹ năng tốt, chứ không cần phải thực hiện thêm bất kỳ đánh giá chuyên nghiệp nào, và dễ dàng thực hiện. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có những hạn chế nhất định, chẳng hạn như dễ bị trốn thuế, nhấn mạnh về mặt thủ tục chứ không phải là về mặt bản chất…v..v..

Tiêu chuẩn kế toán dựa trên nguyên tắc thì không dễ trốn thuế do  bị ràng buộc bởi các nguyên tắc “Quản lý doanh nghiệp” và công tác tổ chức mà DN lập kế hoạch một cách tỉ mỉ. Tuy nhiên, việc này đòi hỏi nhân viên CPA và kế toán viên cần phải đưa ra nhiều những đánh giá chuyên nghiệp, khi sử dụng phương thức này. Hệ thống kế toán của Mỹ được coi là dựa trên các luật lệ, trong khi hệ thống kế toán quốc tế lại được dựa trên nguyên tắc.

Khi đánh giá về vụ Enron Corp, vị Chủ tịch tiền nhiệm của SEC, Arthu Levitt đã sắc bén chỉ ra rằng: “Hệ thống Báo cáo tài chính của Mỹ không cung cấp đủ thông tin về tình trạng tài chính của các công ty được niêm yết cho các nhà đầu tư, tuy nhiên, dữ liệu này đã được suy luận ra những con số không đúng ở nhiều lĩnh vực khác nhau.”

Khi trả lời phỏng vấn của phóng viên của Đài BBC, nhà phân tích tài chính nổi tiếng, Geogre Soros nói: “Hệ thống kế toán của Mỹ chủ yếu dựa trên các luật lệ về kế toán, nhưng như thế vẫn chưa đủ bởi vì có thể dẫn đến các hành vi trốn thuế”. Rõ ràng là tiêu chuẩn kế toán của Mỹ dựa trên các luật lệ khiến các công ty ẩn danh dễ dàng sử dụng để trốn thuế bằng thủ thuật thương mại. Điều này cũng gây tổn hại cho phía công ty niêm yết và các đánh giá chuyên nghiệp của nhân viên CPA. Thông thường, các nhân viên CPA chỉ chú tâm đến chi tiết của các tài chính kế toán, mà không đánh giá tính hợp lý trong các báo cáo tài chính. Việc này có thể dẫn đến sự thất bại trong quá trình kiểm toán và do đó gây ra một loạt các vụ biển thủ tài chính xảy ra.

2. Sai sót về mô hình kiểm toán

Các mô hìh kiểm toán hiện đại bao gồm mô hình kiểm toán trên cơ sở hệ thống và mô hình kiểm toán trên cơ sở các rủi ro. Kiểm toán dựa trên cơ sở hệ thống chủ yếu thiên về hệ thống quản lý nội bộ: Dựa trên phân tích và đánh giá hệ thống quản lý nội bộ để đạt được mục tiêu kiểm toán.

Từ những năm 1990, mô hình kiểm toán của Mỹ đã nhanh chóng thay đổi từ mô hình dựa trên hệ thống thành mô hình dựa trên rủi ro. Trên thực tế, việc thay đổi mô hình kiểm toán là một bước tiến quan trọng trong lịch sử ngành kiểm toán. Đó là việc người ta thay đổi cách thức kiểm toán chứ không phải là thay đổi khái niệm kiểm toán truyền thống, thường dẫn đến tình trạng lộn xộn về các kiến thức kiểm toán. Có khả năng kiểm toán sẽ trở thành một nghề nghiệp sinh lời lớn mà mọi đối tượng đổ xô đi tìm kiếm (bản chất công việc chủ yếu là cân nhắc giữa rủi ro và lợi nhuận đem lại) so với các nghề nghiệp cao quý khác (có bản chất công việc được đúc kết từ những đánh giá chuyên nghiệp và trách nhiệm với cộng đồng). Theo mô hình dựa trên rủi ro thì các công ty kế toán thường tập trung hết sức lực để phân tích các thương vụ và quản lý rủi ro cho khách hàng, nhưng lại không chú trọng đến việc tiến hành kiểm tra thực sự để trực tiếp hỗ trợ kết luận kiểm toán. Với hệ thống bồi thường không hòan hảo và ẩn chứa nguy cơ bồi thường sai thực tế, kiểm toán dựa trên cơ sở rủi ro có thể khiến các nhân viên CPA không tuân thủ theo các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp nhắm tiết kiệm chi phí kiểm toán. Trên thực tế, trong các trường hợp biển thủ tài chính tại các công ty Enron Corp., WolrdCom Inc., Rite Aid Corp., Xerox Corp., ta đều thấy rằng cách thức biển thủ không quá thông minh. Nếu nhân viên CPA tuân thủ nghiêm ngặt tiêu chuẩn kinh doanh khi tác nghiệp, hoàn tất chi tiết các cuộc kiểm tra trên thực tế thì sẽ dễ dàng phát hiện ra những vụ tham ô tài chính này và kịp thời ngăn chặn chúng.

3. Kiểm toán viên làm việc thiếu độc lập, tự chủ trong công việc.

Tính độc lập tự chủ là nhân tố quan trọng bảo đảm chất lượng kiểm toán, khiến cho xã hội tin tưởng vào các công ty kiểm toán. Tuy nhiên, tính độc lập của ngành kiểm toán của nước Mỹ lại đang bị “lợi nhuận” đe dọa nghiêm trọng. Có thể liệt kê các yếu tố gây ảnh hưởng đến tính độc lập khi tác nghiệp của các CPA:

(1) Thu nhập từ các ngành không liên quan đến kiểm toán cao hơn rất nhiều so với thu nhập của nhân viên làm trong ngành kiểm toán. Các ngành không liên quan đến kiểm toán có thể là ngành dịch vụ đại lý, tư vấn về thuế và tư vấn quản lý. Ở Mỹ, tỷ lệ thu nhập của các ngành không liên quan đến kiểm toán tăng rất nhanh, trong khi đó tỷ lệ thu nhập của ngành kiểm toán thì ngược lại, theo thống kê của các công ty Kiểm toán “Big Five”. Và tất nhiên thu nhập của nhân viên làm việc không thuộc lĩnh vực kiểm toán cao hơn rất nhiều so với thu nhập của kiểm toán viên. Theo các dữ liệu thống kê của hơn 50 công ty được  niêm yết ở Mỹ từ năm 2001 đến năm 2002, tỷ lệ giữa thu nhập của các ngành không liên quan đến kiểm toán so với tổng thu nhập chung là 69% và 62% thậm chí có lúc còn lên đến 92%. Theo Ủy ban Chứng khoán và Hối đoái Mỹ (ASEC), thu nhập của ngành không liên quan đến kiểm toán ảnh hưởng đến tính độc lập về mặt tài chính ở 2 mặt.

Thứ nhất, do lượng tiền thu nhập từ các ngành không liên quan đến chứng khoán lớn có thể dẫn đến việc các công ty kiểm toán phụ thuộc vào khách hàng về lĩnh vực tài chính, do đó có thể khiến cho các kiểm toán viên từ bỏ nguyên tắc nghề nghiệp khi phát sinh mâu thuẫn giữa phía kiểm toán viên và khách hàng.

Thứ hai, là nhà tư vấn quản lý làm việc trong lĩnh vực giao dịch không liên quan gì đến kiểm toán bị buộc phải làm việc trong lĩnh vực quản lý công ty, điều này khiến cho kiểm toán viên làm việc trong phạm vi quản lý công ty cảm thấy thật khó khăn để đánh giá cũng như đưa ra các phán xét liên quan đến các giao dịch và công việc kinh doanh một cách khách quan.

Năm 2001, WorldCom Inc. đã trả cho công ty kiểm toán Arthur Andersen chi phí dịch vụ lên đến khoảng 16,8 triệu đôla Mỹ trong đó chi phí cho kiểm toán là 4,4 triệu đôla, dịch vụ tư vấn thuế là 7,6 triệu đôla, chi phí cho việc kiểm toán các bản báo cáo tài chính là 1,6 triệu đôla và các dịch vụ tư vấn khác là 3,2 triệu đôla. Enron Corp. trả Arthur Andersen chi phí kiểm toán 25 triệu, chi phí tư vấn và các phí dịch vụ khác lên đến 27 triệu đôla, và tổng số là 52 triệu đôla. Như thế có nghĩa là công ty Enron Corp. đã trả Arthur Andersen khoảng 1 triệu đôla/tuần. Chủ tịch tiền nhiệm của SEC Arthur Levitt đã lên tiếng phê bình công ty Arthur Andersen thiếu tính độc lập, tự chủ khi làm việc. Ông cho rằng một trong những nguyên nhân chính là các công ty kiểm toán lại cung cấp cả dịch vụ tư vấn quản lý.

4. Thiếu tính thận trọng.

Khi tiến hành các thủ tục kiểm toán, CPA thường bộc lộ nhược điểm của họ là thiếu tính thận trọng và tính hoài nghi nghiệp vụ cần thiết, và do đó thường tin vào lời giải thích của các vị lãnh đạo quản lý công ty. Trong báo cáo kiểm toán từ năm 1991 đến 2001 do công ty kiểm toán Arthur Andersen cung cấp, ASEC và tòa án đã chỉ ra rằng công ty Arthur Andersen đã coi WorldCom Inc. là khách hàng có mức rủi ro cao nhất. Mặc dù Arthur Andersen cũng đa nhận ra rằng có nguy cơ rủi ro rất cao trong báo cáo tài chính kế toán tại WorldCom Inc.

 

 

3 cách nâng cao tư duy phê phán và đưa ra các quyết định kinh doanh tốt hơn

Để có thể ra được những quyết định tốt nhất, bạn cần tư duy phê phán và nhanh chóng để phát hiện ra các sai sót trong các quá trình vận hành có thể gây hại với công ty bạn


Là một doanh nhân, bạn sẽ phải đưa ra các quyết định hằng ngày có thể ảnh hưởng đến thành công của các sản phẩm, sự trung thành của nhân viên và tình trạng chung của công ty. Để có thể ra được những quyết định tốt nhất, bạn cần tư duy phê phán và nhanh chóng để phát hiện ra các sai sót trong các quá trình vận hành có thể gây hại với công ty bạn.

Khi bạn nghĩ về một vấn đề, quá trình suy nghĩ của bạn tự nhiên sẽ bị bao phủ bởi những thành kiến như quan điểm và những giả định của bạn về tình hình. Những thành kiến đó sẽ ảnh hưởng tới lý lẽ của bạn. Nếu bạn để những thành kiến đó điều khiển quá trình suy nghĩ và bỏ qua những điểm mù trong logic của mình thì bạn sẽ vô tình tạo ra các quyết định đầy những lỗ hổng.

Linda Elder, một nhà tâm lý giáo dục kiêm chủ tịch của tổ chức Foundation for Critical Thinking có trụ sở tại Tomales, California cho rằng:  “Tư duy phê phán là cách can thiệp quá trình suy nghĩ của bạn. Đó là cách thường xuyên và liên tục để tìm ra các vấn đề trong suy nghĩ của bạn”.

Hãy thử ba chiến lược giúp bạn nghĩ suy xét vấn đề một cách hiệu quả sau:

1. Xác định mục đích của bạn.

Mỗi khi bạn đối mặt với một quyết định, sẽ có một mục đích gắn với sự lựa chọn đó hoặc một mục tiêu mà quyết định đó sẽ giúp bạn đạt được. Ví dụ, nếu bạn đang chuẩn bị mở rộng sang một thị trường mới, mục đích của bạn có thể sẽ là chọn một thị trường có cơ hội tăng trưởng lớn nhất.

Khi đã xác định được mục đích, thì nó phải được xuyên suốt trong mọi quyết định của bạn. Trước tiên, hãy chắc chắn rằng bạn hiểu rõ mục đích đó là gì, tự mình và cả nhóm làm việc nhắc lại và hãy sử dụng nó ngay từ thời điểm bắt đầu chứ không phải là lúc kết thúc. Elder cho hay:  “Để tư duy phê phán, quan trọng là bạn phải vượt trên các kỹ năng cơ bản như thu thập thông tin”.

2. Đánh giá kỹ những thành kiến của bạn.

Khi bạn đối mặt với một vấn đề, thường thì bạn sẽ xem xét nó chỉ dưới góc độ quan điểm của mình mà bỏ qua ý kiến của khách hàng, đồng nghiệp. Việc chỉ xem xét tình hình từ một góc độ quan điểm có thể dẫn đến những sản phẩm thất bại hoặc lãng phí tiền không cần thiết. Mục tiêu của việc tư duy theo lối phê phán là đem những định kiến đó ra ánh sáng để chúng không còn gây cản trở các quyết định của bạn.

Để làm được như vậy hãy nêu rõ quan điểm riêng của bạn. Hãy tự hỏi mình xem mình có thể tin tưởng gì về tình hình này? Cái gì là quan trọng đối với mình? Tiếp theo hãy tìm kiếm những giải định có thể tạo ra về suy nghĩ hoặc hành vi của những người khác. Elder chia sẻ: “Những suy nghĩ không hợp lý thường vô thức . Khi chúng ta đọc to suy nghĩ của mình, chúng ta sẽ có cơ hội chống lại lối suy nghĩ đã bị bóp méo”.

3. Cân nhắc sự liên kết các lựa chọn của bạn.

Mọi lựa chọn đều có hậu quả và bạn có thể cải thiện việc ra quyết định bằng cách đoán trước những hậu quả đó. Để làm như vậy, hãy tiếp cận với vấn đề từ nhiều quan điểm khác nhau. Hãy tự đặt mình vào vị trí của từng thành viên trong hội đồng quản trị và cân nhắc xem họ sẽ cảm thẩy thế nào và hành động theo từng lựa chọn.

Nếu bạn tạo ra một sự lựa chọn không như mong muốn vì làm khác hàng thất vọng hoặc ảnh hưởng tới doanh số bán hàng, hãy quan sát kỹ hơn những giả định mà bạn chưa nghĩ đến và tìm hiểu lý do tại sao. Elder cho biết: “Lý do phổ biến là mọi người thường lười suy nghĩ và không muốn xem xét một ý kiến có sẵn. Nếu biết mình đã để lỡ những gì và lý do tại sao thì bạn sẽ tránh được vấn đề đó trong tương lai”.

(Dịch từ Entrepreneur)

Theo Kiến thức K

Làm việc ở nhà: Lợi và hại

Được làm việc ở nhà là một giấc mơ đối với nhiều người, nhưng thực tế có vẻ “không như là mơ”. Trước khi thuyết phục sếp rằng bạn có thể ngồi nhà mà vẫn hoàn thành tốt công việc, hãy cân nhắc kỹ những mặt lợi, hại dưới đây:

Lợi:
1. Bạn không phải chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ vào buổi sáng
Trên thực tế, bạn có thể sẵn sàng bất kỳ lúc nào bạn muốn, hoặc chẳng cần chuẩn bị gì cả. Nhất là đối với phụ nữ, việc không cần trang điểm và sấy tóc giúp giải phóng thêm nhiều thời gian và mang tới cảm giác tự do. Bạn không nên mặc bộ pajamas cả ngày, nhưng cảm giác thoải mái là một lợi ích lớn từ “văn phòng tại gia”.
2. Bạn có thể nhảy múa khi đang làm việc
Khi mọi việc diễn ra tốt đẹp hay khi bạn cần sự thư giãn, bạn hoàn toàn có thể rời bàn làm việc, hát lyp-sinc theo đĩa nhạc và nhảy múa. Sẽ chẳng có ai nhìn thấy hành động “điên rồ” này của bạn và đây thực sự là một cách giải tỏa stress tuyệt vời. Bạn cũng có thể đi dạo, hoặc tập thể dục giữa ngày làm việc để cải thiện năng suất lao động.
3. Bạn có được sự yên tĩnh để tập trung vào công việc
Chẳng có ai làm phiền bạn khi bạn đang làm việc ở nhà, trừ phi bạn muốn vậy. Thay vì chứng kiến đồng nghiệp dừng lại bên bàn làm việc của bạn 3 lần mỗi giờ đồng hồ, bạn có thể làm việc liên tục cho tới khi xong việc. Được làm việc một mình đồng nghĩa bạn có thể tập trung tối đa vào tất cả các hạng mục trong danh sách việc cần làm.
4. Bạn sẽ không phải đi lại
Thời gian di chuyển trung bình mỗi ngày của nhân viên ở Mỹ vào khoảng 30 phút, và đây cũng là quãng thời gian gây nhiều ức chế đối với họ. Nếu làm việc ở nhà, bạn sẽ tránh được cảnh tắc đường và khói bụi. Ngoài ra, bạn có thêm thời gian để làm việc do tiết kiệm được thời gian di chuyển trên đường.
Hại:
 
1. Bạn sẽ trao đổi ít hơn với ê-kíp làm việc
Nếu bạn không có nhiều kinh nghiệm về làm việc từ xa, rất có khả năng bạn sẽ không liên lạc thường xuyên với nhóm làm việc của mình và bỏ lỡ những cuộc trao đổi có giá trị. Chính điều này là lý do đủ để bạn nên làm việc ở công sở thay vì ở nhà. Nếu bạn làm việc tại nhà, hãy sử dụng tích cực các công cụ giao tiếp qua mạng, điện thoại… để trao đổi thông tin với đồng nghiệp.
2. Sự phân tán xuất hiện dưới các dạng khác
Khi làm việc ở nhà, bạn không còn phải đối mặt với những đồng nghiệp hay làm phiền, nhưng TV, nhà bếp, các cuốn sách, chú chó cưng, và các con bạn có thể trở thành những nguồn gây phân tán. Hãy đảm bảo là bạn sẽ thực sự làm việc khi bạn muốn làm việc ở nhà. Hãy tạo ra một không gian làm việc phù hợp, tự đặt lịch làm việc cho bản thân để đảm bảo năng suất.
3. Bạn có thể bị đánh giá là kém chuyên nghiệp
Giờ đã là thế kỷ 21 nhưng nhiều công ty vẫn thích nhân viên có mặt ở cơ quan hơn là chú trọng kết quả làm việc. Hãng Best Buy mới đây đã bãi bỏ văn hóa ROWE (Results Only Work Environment – môi trường làm việc chỉ chú trọng kết quả). Một số công ty công nghệ như Yahoo cũng đã chính thức yêu cầu nhân viên không được làm việc ở nhà. Hãy chắc rằng bạn có mối quan hệ mật thiết với cấp quản lý để tránh bị đánh giá là kém chuyên nghiệp nếu bạn thực sự muốn làm việc ở nhà.
4. Bạn cảm thấy quá thoải mái
Làm việc ở nhà chỉ dành cho những người có thể áp dụng kỷ luật và thực hành đối với các thói quen hàng ngày của họ. Nếu bạn cảm thấy chán làm việc ở công sở, có thể vì bạn cảm thấy quá thoải mái khi làm việc ở nhà. Hãy tự tạo ra thử thách cho bản thân để đạt tới mục tiêu mới hoặc hoàn thành một dự án để “kích hoạt” tinh thần cạnh tranh của bạn. Sự nghiệp của bạn phụ thuộc vào điều đó.
Cho dù làm việc ở nhà chỉ là một giấc mơ của bạn hay bạn đang xem xét nghiêm túc cách này, hãy rà soát những ưu tiên của mình và xác định xem điều gì thực sự khiến bạn cảm thấy thỏa mãn trong công việc.
Theo doanhnhansaigon

Bài học kinh doanh từ bà chủ hãng mỹ phẩm Bésame

 
Câu chuyện về Gabriela Hernandez, một doanh nhân đã đặt cả trái tim và tâm hồn mình vào mọi công việc trong công ty do chính mình gây dựng nên, từ việc xây dựng thương hiệu, đóng gói cho đến việc lựa chọn các nhà cung cấp phù hợp.

Doanh nhân: Gabriela Hernandez, 42 tuổi
Lai lịch: Một sử gia nghệ thuật thành công và nhà thiết kế đồ họa, Gabriela Hernandez Waist- cùng với chồng đồng sáng lập tập đoàn Alma Group, một đại lý chuyên về thiết kế tại Los Angeles.
Sau đó Hernandez rời bỏ Alma Group và đầu tư 1 triệu đô la tiền vốn riêng sáng lập và điều hành công việc kinh doanh mỹ phẩm. Hernandez đã biến hãng kinh doanh của mình trở nên nổi tiếng nhờ thiết kế độc đáo tinh xảo và khéo léo.
Công ty: Khai trương năm 2004, thoạt tiên Bésame Cosmetics bán hàng qua trang web nhưng hiện nay hàng hóa của hãng đang bày bán tại những cửa hàng bách hóa nổi tiếng như Printemps tại Paris, và Holt Renfrew tại Vancouver, cũng như trong rất nhiều cửa hàng bán lẻ khác.
Bán hàng: Bésame Cosmetics, đóng tại Glendale, Calif., với khoảng 40,000 đô la doanh thu bán hàng trong năm đầu tiên và lên kế hoạch đạt doanh thu 1.2 triệu đô la trong năm 2007.
Câu chuyện của Gabriela Hernandez: Hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo chiếm phần lớn thời gian trong cuộc sống của tôi, vì vậy suy nghĩ để tạo ra cái gì đó: Một bức tranh, một tác phẩm điêu khắc, một bức ảnh-với tôi chưa bao giờ là một thử thách quá khó.
Điều mà tôi muốn thực hiện là thông qua việc sử dụng những kỹ năng mà tôi học được trong 20 năm lao động miệt mài để cố gắng tạo ra một nhãn hiệu sống mãi với thời gian.
Ý tưởng về việc chế tác các sản phẩm làm đẹp đến với tôi sau khi tôi có dịp làm việc với một số dự án thương hiệu cho các nhà sản xuất trong ngành mỹ phẩm.
Tôi may mắn là người sở hữu nhiều thứ độc đáo thừa hưởng từ thời ông bà tôi, và suy nghĩ muốn biến những thứ đáng yêu đó thành các tác phẩm nghệ thuật làm tôi không thể cưỡng lại được.
Tất nhiên, thị trường bị bão hòa với các nhãn hiệu mỹ phẩm, nhưng tôi chưa bao giờ thấy Bésame là một đối thủ trực tiếp tới bất kỳ nhãn hiệu cụ thể nào trên thị trường bởi vì sản phẩm của chúng tôi có mục tiêu riêng cũng như dễ dàng phân biệt được với các nhãn hiệu khác.

Không bị lẫn trong đám đông
Tôi muốn xây dựng một công ty có trái tim và một linh hồn mà mọi người có thể cảm nhận được thông qua những sản phẩm của chúng tôi. Điều này sẽ ảnh hưởng đến phụ nữ theo một cách tích cực. Sản phẩm phải được lưu lại trong tâm trí những người sử dụng và được cộng đồng nhắc tới với sự trìu mến và cảm giác thân thuộc.
Làm cách nào để tạo ra một nhãn hiệu không bị lẫn trong một thị trường đông đúc? Tạo ra một nhãn hiệu cũng giống như việc sinh ra một người hoàn hảo đáp ứng các yêu cầu do mình đặt ra. “Con người” này có cá tính, có đạo đức, có tính khí và có một vẻ ngoài vật chất. Khi tạo ra Bésame, tôi đã truyền vào nhãn hiệu một cá tính rõ ràng, trong mọi chi tiết, và khách hàng có thể cảm nhận được điều này.
Từ các kiểu dáng thiết kế của những hộp đựng đến mùi của sản phẩm cho tới việc không ngừng sáng tạo mẫu mã, tất cả là một phần trong một quá trình đồng bộ, thêm vào đó là sự khác biệt.
Các khách hàng sẽ biết chúng tôi là ai, chúng tôi đại diện cho cái gì, và thậm chí họ còn nói cho chúng tôi biết họ muốn chúng tôi làm ra những sản phẩm nào. Khách hàng luôn vui vẻ hợp tác với tôi tại các cuộc họp mặt khách hàng và nói những điều họ thích hay không thích về những sản phẩm của chúng tôi.
Nhãn hiệu có cá tính
Nhãn hiệu có cá tính riêng là một trong những điểm khác biệt chủ yếu và quan trọng để nhãn hiệu đọng lại trong tâm trí khách hàng. Tư cách đạo đức của công ty cũng là một thành phần chính yếu khác góp phần tạo nên thành công cho một nhãn hiệu.
Khách hàng phải biết chỗ đứng của công ty trong các vấn đề mà họ coi là quan trọng. “Giúp đỡ” khách hàng để họ cảm thấy hài lòng về sự lựa chọn của mình là một cách rất hay góp phần vun trồng mối quan hệ với khách hàng.
Tôi chọn cho Bésame một phong cách nữ tính, một cá tính lãng mạn, thanh lịch và độc đáo. Bésame mang trong mình những giá trị thời trang cổ điển, những giá trị tin cậy và đã được kiểm chứng qua thời gian.
Tính nhất quán là chìa khóa
Để xác định cách thức dùng để truyền đạt tính độc đáo cho nhãn hiệu của mình, tôi đã phải quan sát toàn cảnh những nhãn hiệu khác cùng loại mặt hàng trên thị trường. Tôi đã nhìn thấy một biển những hộp nhựa đen với những biểu tượng khác nhau được đóng dấu lên trên những bề mặt kém hấp dẫn đó.
Tôi quyết định làm Bésame trở nên độc nhất vô nhị nhờ công nghệ đúc khuôn và sử dụng nhiều kim loại hơn trong việc làm bao bì. Chính những thiết kế rất riêng đó đã làm các sản phẩm của chúng tôi rất khác biệt và nổi bật.
Trong việc sử dụng đồ họa, tính nhất quán là chìa khóa. Những màu sắc, những kết cấu và kích cỡ tất cả đều góp phần tạo ra một hình ảnh đáng nhớ cho khách hàng, và chính điều này là điểm đầu tiên tạo ra nét riêng cho thương hiệu.
Màu sắc là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của bao bì. Nó thường được dùng làm phương tiện đem lại sự nổi bật cho nhãn hiệu trong hàng loạt các sản phẩm cùng loại nằm chen chúc trên giá bán.
Tôi chọn màu gạch đỏ và màu kem mát mẻ vì màu đỏ đại diện cho cảm xúc mạnh mẽ và sự thanh lịch của vua chúa, trong khi đó màu kem cân bằng sức mạnh của màu đỏ làm cho nó đỡ chói gắt.
Mô típ hoa được chúng tôi sử dụng trong mỗi sản phẩm. Mô típ này hiện diện trên các danh thiếp và nó làmcho nhãn hiệu của chúng tôi được xác định rõ ràng trong bất kỳ môi trường bán lẻ nào.
Người thiết kế giúp tôi xây dựng một hệ thống mẫu mã đóng gói nhất quán cũng như tạo lập hệ thống bán lẻ và xây dựng trang web. Một nhãn hiệu mới đòi hỏi người ta phải hao công tốn của như nuôi một đứa trẻ sơ sinh.
Những nhà cung cấp cũng là các đối tác
Đây là một việc khó, đặc biệt khi có rất nhiều sự lựa chọn. Chúng tôi đã quyết định dùng công nghệ đúc cho các sản phẩm của mình. Điều này yêu cầu nhiều thời gian và tốn nhiều nguồn lực hơn, nhưng nó lại tạo nên ý nghĩa cho nhãn hiệu của chúng tôi, bởi vì chúng là một phần trong toàn bộ nhãn hiệu.
Chúng tôi không đi theo sau những khuynh hướng, chúng tôi lựa chọn việc sản xuất những sản phẩm không theo mùa và hữu ích quanh năm đối với đa số phụ nữ. Chúng tôi không muốn đi theo chu kỳ hàng hóa theo mùa cứ ba tháng một lần lại bị gián đoạn.
Việc tuân thủ chiến lược được vạch sẵn dẫn đến việc phải tìm được các nhà cung cấp có thể nhìn thấy được nhãn hiệu của chúng tôi khác biệt ở đâu. Những đối tác – nhà cung cấp này cần coi trọng công việc, những thiết kế, tầm nhìn của chúng tôi và đồng hành cùng chúng tôi.
Nhiều phương thức của các nhà cung cấp được giới thiệu đã không phù hợp với tầm nhìn của chúng tôi về nhãn hiệu. Chúng tôi đã buộc phải từ chối những đề nghị không phù hợp.
Thật là khó khi cùng một lúc từ chối nhiều các cửa hàng muốn bán sản phẩm của chúng tôi nhưng lại không cùng chung tầm nhìn. Công việc của người phát triển nhãn hiệu là một trong số những nhiệm vụ thử thách nhất mà tôi từng đảm nhiệm.
Bésame là một nhãn hiệu mới trong thị trường xa xỉ, với ý định chiếm giữ một không gian mà trước đây dành cho những tên tuổi lớn về chăm sóc sắc đẹp, việc này đã thử thách mối quan hệ của chúng tôi với những nhà bán lẻ.
Yêu công việc 24/7
Nhiều người đã từng hỏi liệu tôi có những kỳ nghỉ hay có lúc nào đó tạm ngừng không nghĩ về công việc hay không, và câu trả lời của tôi là “không”. Tôi thực sự yêu công việc của mình và nó đã trở nên một phần con người tôi.
Đó là định mệnh của bạn, nếu bạn muốn trở thành một doanh nhân. Bạn sẽ luôn luôn bị thôi thúc muốn vươn tới thành tựu tiếp theo và không bao giờ thỏa mãn.
Điều hành một công ty và xây dựng một nhãn hiệu không hề dễ dàng, nhưng đối với tôi, đó là việc đáng làm nhất mà tôi đã từng thực hiện.
(Phương Trinh – Theo DDDN/PWPortal)