Archive June 27, 2013

Nội Dung Ghi Trên Hóa Đơn GTGT

1. Tên loại hoá đơn

Tên loại hóa đơn thể hiện trên mỗi tờ hoá đơn. Ví dụ: hóa đơn GTGT, hóa đơn bán hàng..

Trường hợp hoá đơn còn dùng như một chứng từ cụ thể cho công tác hạch toán kế toán hoặc bán hàng thì có thể đặt thêm tên khác kèm theo, nhưng phải ghi sau tên loại hoá đơn với cỡ chữ nhỏ hơn hoặc ghi trong ngoặc đơn. Ví dụ: hóa đơn GTGT, phiếu bảo hành…

Đối với hoá đơn xuất khẩu, thể hiện tên loại hoá đơn là HOÁ ĐƠN XUẤT KHẨU hoặc tên gọi khác theo thông lệ, tập quán thương mại. Ví dụ: HOÁ ĐƠN XUẤT KHẨU, INVOICE, COMMERCIAL INVOICE…

2. Ký hiệu mẫu số hóa đơn và ký hiệu hoá đơn.hóa đơn gtgt

Ký hiệu mẫu số hóa đơn là thông tin thể hiện ký hiệu tên loại hóa đơn, số liên, số thứ tự mẫu trong một loại hóa đơn (một loại hoá đơn có thể có nhiều mẫu).

Ký hiệu hoá đơn là dấu hiệu phân biệt hoá đơn bằng hệ thống chữ cái tiếng Việt và năm phát hành hoá đơn.
3. Tên liên hóa đơn
Liên hóa đơn là các tờ trong cùng một số hóa đơn. Mỗi số hoá đơn phải có từ 2 liên trở lên và tối đa không quá 9 liên, trong đó:

+ Liên 1: Lưu.

+ Liên 2: Giao cho người mua.

Các liên từ liên thứ 3 trở đi được đặt tên theo công dụng cụ thể mà người tạo hoá đơn quy định. Riêng hoá đơn do cơ quan thuế cấp lẻ phải có 3 liên, trong đó liên 3 là liên lưu tại cơ quan thuế.

4. Số thứ tự hoá đơn

Số thứ tự của hoá đơn là số thứ tự theo dãy số tự nhiên trong ký hiệu hoá đơn, gồm 7 chữ số trong một ký hiệu hóa đơn.

5. Tên, địa chỉ, mã số thuế của người bán;

6. Tên, địa chỉ, mã số thuế của người mua;

7. Tên hàng hóa, dịch vụ; đơn vị tính, số lượng, đơn giá hàng hoá, dịch vụ; thành tiền ghi bằng số và bằng chữ.

Đối với hóa đơn giá trị gia tăng, ngoài dòng đơn giá là giá chưa có thuế giá trị gia tăng, phải có dòng thuế suất thuế giá trị gia tăng, tiền thuế giá trị gia tăng, tổng số tiền phải thanh toán ghi bằng số và bằng chữ.

8. Người mua, người bán ký và ghi rõ họ tên, dấu người bán (nếu có) và ngày, tháng, năm lập hoá đơn.

9. Tên tổ chức nhận in hoá đơn

Đối với hoá đơn đặt in, trên hóa đơn phải thể hiện tên và mã số thuế của tổ chức nhận in trên từng tờ hoá đơn, bao gồm cả trường hợp tổ chức nhận in hóa đơn quyết định in hoá đơn để tự sử dụng.

10. Hóa đơn được thể hiện bằng tiếng Việt. Trường hợp cần ghi thêm chữ nước ngoài thì chữ nước ngoài được đặt bên phải trong ngoặc đơn ( ) hoặc đặt ngay dưới dòng tiếng Việt và có cỡ nhỏ hơn chữ tiếng Việt. Chữ số ghi trên hóa đơn là các chữ số tự nhiên: 0, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9; sau chữ số hàng nghìn, triệu, tỷ, nghìn tỷ, triệu tỷ, tỷ tỷ phải đặt dấu chấm (.); nếu có ghi chữ số sau chữ số hàng đơn vị phải đặt dấu phẩy (,) sau chữ số hàng đơn vị.

Mỗi mẫu hoá đơn sử dụng của một tổ chức, cá nhân phải có cùng kích thước.

Đối với hoá đơn xuất khẩu, nội dung đã lập trên hoá đơn xuất khẩu phải bao gồm: số thứ tự hoá đơn; tên, địa chỉ đơn vị xuất khẩu; tên, địa chỉ đơn vị nhập khẩu; tên hàng hoá, dịch vụ, đơn vị tính, số lượng, đơn giá, thành tiền, chữ ký của đơn vị xuất khẩu (mẫu số 5.4 Phụ lục 5 ban hành kèm theo Thông tư này). Trường hợp trên hoá đơn xuất khẩu chỉ sử dụng một ngôn ngữ thì sử dụng tiếng Anh. Tổ chức, cá nhân được sử dụng hoá đơn giá trị gia tăng cho hoạt động bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ vào khu phi thuế quan và các trường hợp được coi như xuất khẩu theo quy định của pháp luật về thương mại.

Ví dụ: – Doanh nghiệp A là doanh nghiệp vừa có hoạt động bán hàng trong nước vừa có hoạt động xuất khẩu ra nước ngoài. Doanh nghiệp A sử dụng hoá đơn giá trị gia tăng cho hoạt động bán hàng trong nước. Đối với hoạt động xuất khẩu ra nước ngoài, doanh nghiệp A sử dụng hoá đơn xuất khẩu với các tiêu thức theo hướng dẫn trên.

– Doanh nghiệp B là doanh nghiệp vừa có hoạt động bán hàng trong nước vừa có hoạt động bán hàng cho tổ chức, cá nhân trong khu phi thuế quan. Doanh nghiệp B được sử dụng hoá đơn giá trị gia tăng cho cả hai hoạt động trên.
Ngoài ra kế toán cần biết những nội dung không bắt buộc trên hóa đơn đã lập:
a) Ngoài nội dung bắt buộc theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều này, tổ chức, cá nhân kinh doanh có thể tạo thêm các thông tin khác phục vụ cho hoạt động kinh doanh, kể cả tạo lô-gô, hình ảnh trang trí hoặc quảng cáo.

b) Cỡ chữ của các thông tin tạo thêm phải nhỏ hơn cỡ chữ nhỏ nhất của các nội dung bắt buộc.

c) Các thông tin tạo thêm phải đảm bảo phù hợp với pháp luật hiện hành, không che khuất, làm mờ các nội dung bắt buộc phải có trên hóa đơn.

3. Một số trường hợp hóa đơn không nhất thiết có đầy đủ các nội dung bắt buộc:

a) Tổ chức kinh doanh bán hàng hoá, dịch vụ có thể tạo, phát hành và sử dụng hoá đơn không nhất thiết phải có chữ ký người mua, dấu của người bán trong trường hợp sau: hóa đơn điện; hóa đơn nước; hóa đơn dịch vụ viễn thông; hoá đơn dịch vụ ngân hàng đáp ứng đủ điều kiện tự in theo hướng dẫn tại Thông tư này.

b) Các trường hợp sau không nhất thiết phải có đầy đủ các nội dung bắt buộc, trừ trường hợp nếu người mua là đơn vị kế toán yêu cầu người bán phải lập hoá đơn có đầy đủ các nội dung hướng dẫn tại khoản 1 Điều này:

– Hóa đơn tự in của tổ chức kinh doanh siêu thị, trung tâm thương mại được thành lập theo quy định của pháp luật không nhất thiết phải có tên, địa chỉ, mã số thuế, chữ ký của người mua, dấu của người bán.

– Đối với tem, vé: Trên tem, vé có mệnh giá in sẵn không nhất thiết phải có chữ ký người bán, dấu của người bán; tên, địa chỉ, mã số thuế, chữ ký người mua.

Nguồn : Saga.com

 

Một số vấn đề về mô hình hạch toán chi phí theo hoạt động (activity-based costing- abc) trong kế toán quản trị chi phí

Giới thiệu chung về phương pháp ABC

ABC lần đầu tiên được định nghĩa một cách rõ ràng bởi Robert S. Kaplan, cha đẻ của lý thuyết Bảng điểm cân bằng (Balanced Scorecard), và W. Bruns trong một chương của cuốn sách “Accounting and Management: A field Study Perspective” vào năm 1987. Nhưng một năm sau đó, Robin Cooper và Robert S. Kaplan mới thực sự khiến cho mọi người chú ý đến ABC khi đề cập đến nó trong một bài báo được xuất bản trên tạp chí khoa học của trường Havard vào năm 1988. Trong bài báo này, Cooper và Kaplan đã mô tả ABC như một cách tiếp cận mới để giải quyết những khiếm khuyết của hệ thống quản lý chi phí truyền thống. Hai ông đã chỉ ra ba nguyên nhân dẫn đến việc phải thay đổi hệ thống hạch toán chi phí truyền.

Một là, sự phát triển của khoa học công nghệ đã làm thay đổi cơ cấu chi phí, khiến cho chi phí trực tiếp ngày càng giảm trong khi chi phí gián tiếp ngày càng tăng.

Hai là, môi trường cạnh tranh toàn cầu liên tục biến đổi và ngày càng gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp phải có hệ thống thông tin quản trị chính xác, kịp thời, liên tục cập nhật để hạn chế các phí tổn cũng như chớp được cơ hội kinh doanh.

Ba là, chi phí để tính toán, đo lường và tập hợp thông tin ngày càng giảm cho phép doanh nghiệp áp dụng các mô hình quản trị mới đòi hỏi nhiều thông tin đầu vào và đồng thời cung cấp nhiều thông tin chi tiết đầu ra hữu ích với mức chi phí chấp nhận được.

Những hạn chế của phương pháp hạch toán chi phí truyền thống

Theo quan điểm truyền thống, giá thành sản xuất của sản phẩm do ba yếu tố cấu thành là chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Dựa vào thông tin giá thành này, các nhà quản lý sẽ đề ra các quyết định về loại sản phẩm, số lượng sản phẩm cần sản xuất. Tuy nhiên, để có thể ra được quyết định đúng đắn, nhà quản lý cần thông tin về giá thành toàn bộ chứ không chỉ là giá thành công xưởng. Nghĩa là trong yếu tố giá thành, ngoài chi phí sản xuất còn phải tính đến các chi phí phụ trợ như chi phí bán hàng và chi phí quản lý. Tuy nhiên, phương pháp tính phí truyền thống lại bỏ qua vấn đề này.

Mặt khác, trước đây, khi nền kinh tế còn kém phát triển, phần lớn các doanh nghiệp vẫn coi sản phẩm là đối tượng trung tâm trong việc phân bổ chi phí. Một thực tế nảy sinh là trong nhiều doanh nghiệp, việc sản xuất sản phẩm không phải là nguyên nhân chính làm phát sinh chi phí. Một doanh nghiệp có thể phải gánh chịu những khoản chi phí rất lớn do công tác quản trị không hiệu quả hoặc do tình trạng sản xuất thừa hoặc do những hoạt động phụ trợ như nghiên cứu và phát triển sản phẩm, duy trì mối quan hệ với nhà cung cấp, hoạt động marketing…

Sự phát triển của khoa học công nghệ khiến cho tỷ trọng chi phí gián tiếp trong tổng chi phí ngày một lớn. Điều này đặt ra một nhu cầu phân bổ chi phí gián tiếp cho từng loại/nhóm sản phẩm hoặc khách hàng thật chính xác để có thể xác định được đâu là loại/nhhóm sản phẩm hoặc khách hàng thực sự đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Theo phương pháp truyền thống, chi phí gián tiếp thường được phân bổ cho sản phẩm hoặc khách hàng dựa trên  tiêu thức phân bổ đơn lẻ, ví dụ theo giờ lao động của nhân công trực tiếp. Việc làm này không thể hiện được chính xác sự đóng góp của chi phí gián tiếp vào việc tạo ra sản phẩm/dịch vụ vì chi phí gián tiếp có nhiều khoản mục với bản chất khác nhau và có mức độ, vai trò đóng góp khác nhau vào việc tạo ra sản phẩm/dịch vụ.

Như vậy, phương pháp ABC khác với phương pháp truyền thống ở hai điểm.

Thứ nhất, phương pháp truyền thống tập trung vào đánh giá hàng tồn kho và các chi phí liên quan trong giới hạn phân xưởng. Ngược lại, phương pháp ABC tập trung đánh giá theo hoạt động, do đó tính đến cả các chi phí ngoài phạm vi phân xưởng như chi phí quản lý, chi phí bán hàng.

Thứ hai, phương pháp truyền thống chỉ sử dụng một hoặc hai tiêu thức phân bổ chi phí đơn lẻ và thường không có mối quan hệ nhân quả trực tiếp với việc phát sinh chi phí. Ngược lại, ABC lại sử dụng các hoạt động với rất nhiều tiêu thức phân bổ linh hoạt để kết nối sản phẩm với chi phí cần phân bổ. Vì thế ABC cho ta thấy bản chất của quá trình phát sinh chi phí.

Ưu điểm của phương pháp ABC

Mục đích của ABC là nhằm cải tiến và thay đổi doanh nghiệp một cách linh hoạt, đáp ứng các thách thức và biến động liên tục của thị trường. Một khi doanh nghiệp triển khai được mô hình ABC thì nó sẽ có được lợi thế cạnh tranh rất lớn trên thị trường.

Phương pháp ABC cung cấp cho nhà quản lý thông tin giá thành toàn bộ, tức là có tính đến các chi phí sản xuất kinh doanh nói chung như chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh  nghiệp chứ không chỉ bó hẹp ở khái niệm giá thành sản xuất. Điều này giúp cho nhà quản lý không nhìn nhận sai lầm về mức lợi nhuận mà một sản phẩm/ dịch vụ cụ thể đem lại và do đó tránh được những sai lầm trong việc ra quyết định.

Ngoài ra, ABC sử dụng một hệ thống các tiêu chí phân bổ tương ứng với từng hoạt động cụ thể. Những tiêu chi phí phân bổ này cho thấy rõ mối quan hệ nhân quả giữa chi phí phát sinh cho từng hoạt động và mức độ tham gia của từng hoạt động và quá trình sản xuất kinh doanh. Với hệ thống tiêu thức phân bổ chính xác và đầy đủ này, kế toán có thể phản ánh chính xác hơn mức độ tiêu hao nguồn lực thực tế của từng loại sản phẩm/dịch vụ.

Trải qua gần 30 năm tồn tại và phát triển, phương pháp ABC đã dần khẳng định vai trò là một phương pháp tập hợp và phân bổ chi phí chính xác. Nó còn là nền tảng để phát triển mô hình quản trị doanh nghiệp hiện đại ABM (Acitvity- based Management).

Nhược điểm của phương pháp ABC

Thực tế là bên cạnh những ưu điểm nổi bật đã phân tích ở trên, phương pháp ABC không phải là không có nhược điểm. Những hạn chế của phương pháp ABC thường được đề cập đến là:

Để có được hệ thống ABC, doanh nghiệp phải tiêu tốn rất nhiều nguồn lực từ thiết kế, xây dựng đến khâu triển khai. Thông tin đầu vào của phương pháp ABC liên quan đến rất nhiều hoạt động vì vậy sẽ mất rất nhiều công sức để thu thập, kiểm tra và nhập dữ liệu thông tin vào hệ thống.

Thông tin do phương pháp ABC cung cấp về sản phẩm thường không đồng nhất với thông tin của hệ thống hạch toán chi phí truyền thống. Mà trong thực tế, các nhà quản trị thường quen sử dụng thông tin của hệ thống hạch toán chi phí truyền thống trong việc đưa ra quyết định quản trị và dùng nó làm thước đo đánh giá kết quả hoạt động.

Thông tin của ABC dễ bị hiểu sai và do đó phải rất thận trọng khi sử dụng thông tin này để ra quyết định. Chi phí phân bổ cho sản phẩm, cho khách hàng, và cho các đối tượng chịu phí chỉ có khả năng phù hợp tương đối. Trước khi đưa ra bất cứ quyết định quan trọng nào sử dụng thông tin của ABC, các nhà quản trị phải cân nhắc mức độ thích đáng thực sự của thông tin tới việc ra quyết định này hay không.

Hệ thống báo cáo của ABC không tương thích với hệ thống báo cáo tài chính theo GAAP. Kết quả là nếu đơn vị sử dụng phương pháp ABC thì phải duy trì song song hai hệ thống hạch toán chi phí- một dùng lập báo cáo nội bộ, một dùng lập báo cáo tài chính thông thường.

Với những hạn chế này, sau gần 30 năm tồn tại, vẫn có nhiều luồng ý kiến tranh cãi về ưu nhược điểm của mô hình ABC. Thực tế trên thế giới, ví dụ như ở Nhật, các doanh nghiệp ít sử dụng phương pháp ABC mà chủ yếu sử dụng phương pháp tồn kho kịp thời (Just-in-time-JIT) trong quản trị chi phí; hoặc sau khi áp dụng mô hình ABC một thời gian nhiều doanh nghiệp đã chuyển sang các hệ thống quản trị chi phí khác.

Vì vậy, ABC nên áp dụng vào ngành nghề kinh doanh nào cần phải dựa trên cơ sở phân tích ưu nhược điểm của mô hình này.Trong điều kiện nền kinh tế trong nước và thế giới đang rơi vào suy thoái, nhu cầu về tái cơ cấu doanh nghiệp, thu hẹp hoạt động sản xuất để tồn tại là một nhu cầu cấp bách. Việc có nên áp dụng phương pháp ABC vào đơn vị còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng đây có thể là một gợi ý có giá trị thực tiễn.

Thạc sỹ: Nguyễn Thanh Huyền

Thạc sỹ: Nguyễn Thu Hoài

Theo: khoahockiemtoan.vn

Dính líu rửa tiền, Deloitte bị phạt 10 triệu đô la

Có nhiệm vụ giám sát chống rửa tiền tại Standard Chartered Bank, nhưng lại sửa chữa báo cáo theo ý ngân hàng này trước khi gửi cho cơ quan giám sát

Bộ phận Dịch vụ tư vấn tài chính của Deloitte còn bị cấm hành nghề trong vòng một năm tại bang New York.

Lãnh đạo Sở dịch vụ tài chính New York nói vụ này mới chỉ là khởi đầu trong đợt điều tra ngành tư vấn tài chính.

Lệnh cấm này không áp dụng với bộ phận kiểm toán của Deloitte.

Hồi tháng 8, Standard Charterd đồng ý nộp phạt 340 triệu USD cho bang New York vì vi phạm lệnh cấm vận với Iran và một số nước khác. Tới tháng 12, ngân hàng này lại phải nộp tiếp 327 triệu USD đề dàn xếp với các cơ quan chính phủ khác.

Khi tư vấn cho Standard Charterred, Deloitte đã bỏ qua nhiều thông tin trọng yếu trong báo cáo giám sát độc lập mà công ty tư vấn này gửi cho Sở Dịch vụ tài chính New York.

Deloitte còn vi phạm quy định về ngân hàng tại New York khi trao cho Standard Chartered nhiều báo cáo mật về các hành vi mờ ám của ngân hàng này với khách hàng.

Thỏa thuận dàn xếp viết cơ quan giám sát “không tìm thấy bằng chứng” cho thấy tư vấn viên của Deloitte cố ý trợ giúp hay lập kế hoạch cho hành vi rửa tiền của mình. Hồi tháng 8, Sở dịch vụ tài chính New York đã tuyên bố Standard Chartered phạm pháp là “rõ ràng là nhờ Deloitte trợ giúp”.

Deloitte nói họ hài lòng khi cơ quan giám sát không tìm thấy bằng chứng cho thấy công ty này “biết, trợ giúp hay che giấu hành vi phạm pháp” của Standar Chartered.

Thanh tra Benjamin Lawsky của Sở Dịch vụ tài chính New York nói sự vụ lần này với Deloitte chỉ là màn dạo đầu trong chuỗi điều tra với các công ty tư vấn.

Ông nói đây nên coi là hình mẫu cho các cơ quan khác thuộc chính phủ khi họ thuê tư vấn độc lập thực hiện công việc giám sát.

“Chúng tôi muốn đảm bảo các công ty tư vấn giữ được vị thế độc lập thay vì cúi đầu với tổ chức nào trả nhiều phí nhất,” Lawsky tuyên bố.

Deloitte được thuê làm tổ chức giám sát độc lập đối với chi nhánh New York của Standard Chartered sau khi ngân hàng này vi phạm một số quy định về chống rửa tiền.

Gọi là “độc lập”, nhưng Standard Chartered từng yêu cầu Deloitte xóa bớt một ý trong dự thảo báo cáo về cách ngân hàng biến hóa các giao dịch chuyển tiền để né hàng rào chống rửa tiền.

Trong một email do Sở Dịch vụ tài chính công bố năm ngoái, một thành viên điều hành (Partner) của Deloitte viết “chúng tôi đồng ý” với yêu cầu của Standard Chartered vì “quá căng thẳng và quá nhạy cảm đối với cả Standard Charterd và Deloitte. Thế nên tôi mới thảo một bản khác nhẹ nhàng hơn.”

Bên cạnh hai nộp tiền dàn xếp, Deloitte còn đồng ý bổ sung thêm các biện pháp phòng ngừa khi tư vấn cho các tổ chức tài chính.

Cụ thể, họ sẽ công khai tất cả những việc đã làm với các tổ chức tài chính trong vòng ba năm qua, ký thư cam kết sẽ đưa ra các đánh giá độc lập, và cung cấp danh sách những người đã duyệt các báo cáo tư vấn.

Sở Dịch vụ tài chính New York sau sáu tháng tới họ sẽ xem xét hủy lệnh cấm ký thêm hợp đồng tư vấn mới trong vòng một năm.

Khoản dàn xếp 10 triệu USD với bang New York lớn gấp đôi số phí Deloitte nhận được khi làm giám sát độc lập cho Standard Chartered.

Tuy thế, lệnh cấm hành nghề trong vòng một năm đối với Khối Tư vấn tài chính của Deloitte không ảnh hưởng mấy tới toàn công ty vì bộ phận này chỉ chiếm có 5% trong 13 tỷ USD doanh thu năm vừa rồi của Deloitte Hoa Kỳ.

Thu Hà

Nguôn: Cafef.vn

Phân biệt kế toán quản trị, kế toán tài chính và kế toán tổng hợp

 

Theo phần đa chuyên gia kinh tế,  Kế toán gồm 4 bộ phận:

·         Lý thuyết hạch toán kế toán

·         Kế toán tài chính

·         Kế toán quản trị

·         Kiểm toán.

 

Kế toán quản trị và kế toán tài chính được coi là bộ phận hữu cơ của kế toán doanh nghiệp.

Vậy Kế toán quản trị và kế toán tài chính là gì?

Chúng có mối quan hệ với nhau như  thế nào?

Kế toán tài chính có phải là kế toán tổng hợp và kế toán quản trị có phải là kế toán chi tiết hay không?

 

1. ĐỊNH NGHĨA KẾ TOÁN QUẢN TRỊ VÀ KẾ TOÁN TÀI CHÍNH

Kế toán được định nghĩa là một hệ thống thông tin đo lường, xử lý và cung cấp thông tin hữu ích cho việc ra các quyết định điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

a.        Kế toán quản trị đưa ra tất cả các thông tin kinh tế đã được đo lường xử lý và cung cấp cho ban lãnh đạo doanh nghiệp để điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, hay nói cách khác kế toán quản trị giúp ban lãnh đạo doanh nghiệp cân nhắc và quyết định lựa chọn một trong những phương án có hiệu quả kinh tế cao nhất:

Phải sản xuất những sản phẩm nào? Phương thức sản xuất? Cách thức bán ra? Giá cả? Nguồn nhân lực được phân phối thực hiện hiệu quả nhất?

–          Các loại quyết định: quyết định mang tính ngắn hạn và quyết định mang tính dài hạn.

Quyết định mang tính chất ngắn hạn: giúp doanh nghiệp giải quyết các bài toán kinh tế trong thời kỳ ngắn hạn.

Ví dụ: Trong trường hợp nào doanh nghiệp có thể bán sản phẩm với giá thấp hơn giá ở điểm hoà vốn? Trong trường hợp nào doanh nghiệp nên tự chế hay đi mua một vài bộ phận của sản phẩm?

Trong trường hợp nào doanh nghiệp nên bán ra bán thành phẩm thay vì tiếp tục hoàn thiện thành sản phẩm cuối cùng?

Quyết định mang tính dài hạn: Các quyết định này giúp doanh nghiệp giải quyết các bài toán kinh tế hoạch định chiến lược đầu tư dài hạn như:

Trong trường hợp nào doanh nghiệp quyết định thay thế mua sắm thêm các máy móc thiết bị hay thực hiện phát triển thêm lĩnh vực kinh doanh.

b.      Kế toán tài chính phản ánh hiện trạng và sự biến động về vốn, tài sản của doanh nghiệp dưới dạng tổng quát hay phản ánh các dòng vật chất và dòng tiền tệ trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp với môi trường kinh tế bên ngoài.

Sản phẩm của kế toán tài chính là các báo cáo tài chính. Thông tin của kế toán tài chính được sử dụng cho ban lãnh đạo doanh nghiệp còn được sử dụng để cung cấp cho các đối tượng bên ngoài như: Các nhà đầu tư, ngân hàng, cơ quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan thống kê.

4

 

2. SO SÁNH KẾ TOÁN TÀI CHÍNH VÀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ

2.1. Giống nhau:

Chúng đều có mối quan hệ chặt chẽ với thông tin kế toán, đều nhằm vào việc phản ánh kết quả hoạt động của doanh nghiệp, đều quan tâm đến doanh thu, chi phí và sự vận động của tài sản, tiền vốn.

Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ chặt chẽ về số liệu thông tin. Các số liệu của kế toán tài chính và kế toán quản trị đều được xuất phát từ chứng từ gốc. Một bên phản ánh thông tin tổng quát, một bên phản ánh thông tin chi tiết.

Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ trách nhiệm của Nhà quản lý.

 

2.2. Khác nhau giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị

* Mục đích:

– Kế toán quản trị: Cung cấp thông tin phục vụ điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh.

– Kế toán tài chính: Cung cấp thông tin phục vụ cho việc lập các báo cáo tài chính.

 

* Đối tượng phục vụ:

– Đối tượng sử dụng thông tin về kế toán quản trị là: Các nhà quản lý doanh nghiệp (Hội đồng quản trị, ban giám đốc)

– Đối tượng sử dụng thông tin về kế toán tài chính là: Các nhà quản lý doanh nghiệp và các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp (Nhà đầu tư, ngân hàng, cơ quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan thống kê)

 

* Đặc điểm của thông tin:

– Kế toán quản trị nhấn mạnh đến sự thích hợp và tính linh hoạt của số liệu, thông tin được tổng hợp phân tích theo nhiều góc độ khác nhau. Thông tin ít chú trọng đến sự chính xác mà mang tính chất phản ánh xu hướng biến động, có tính dự báo vì vậy thông tin kế toán quản trị phục vụ cho việc đánh giá và xây dựng các kế hoạch kinh doanh, thông tin được theo dõi dưới hình thái giá trị và hình thái hiện vật.

Ví dụ: Kế toán vật tư ngoài việc theo dõi giá trị của vật tư còn phải theo dõi số lượng vật tư.

– Kế toán tài chính phản ánh thông tin xảy ra trong quá khứ đòi hỏi có tính khách quan và có thể kiểm tra được. Thông tin chỉ được theo dõi dưới hình thái giá trị.

 

* Nguyên tắc cung cấp thông tin:

– Kế toán quản trị không có tính bắt buộc, các nhà quản lý được toàn quyền quyết định và điều chỉnh phù hợp với nhu cầu và khả năng quản lý của doanh nghiệp.

– Kế toán tài chính phải tôn trọng các nguyên tắc kế toán được thừa nhận và được sử dụng phổ biến, nói cách khác kế toán tài chính phải đảm bảo tính thống nhất theo các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán nhất định để mọi người có cách hiểu giống nhau về thông tin kế toán đặc biệt là báo cáo tài chính và kế toán tài chính phải tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt là những yêu cầu quản lý tài chính và các yêu cầu của xã hội thông qua việc công bố những số liệu mang tính bắt buộc.

 

* Phạm vi của thông tin:

– Phạm vi thông tin của kế toán quản trị liên quan đến việc quản lý trên từng bộ phận (phân xưởng, phòng ban) cho đến từng cá nhân có liên quan.

– Phạm vi thông tin của kế toán tài chính liên quan đến việc quản lý tài chính trên quy mô toàn doanh nghiệp.

 

* Kỳ báo cáo:

– Kế toán quản trị có kỳ lập báo cáo nhiều hơn: Quý, năm, tháng, tuần, ngày.

– Kế toán tài chính có kỳ lập báo cáo là: Quý, năm

 

* Quan hệ với các môn khoa học khác:

Kế toán tài chính ít có mối quan hệ với các môn khoa học khác. Do thông tin kế toán quản trị được cung cấp để phục vụ cho chức năng quản lý, nên ngoài việc dựa vào hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán tài chính thì kế toán quản trị còn phải kết hợp và sử dụng nội dung của nhiều môn khoa học khác như: Kinh tế học, thống kê kinh tế, tổ chức quản lý doanh nghiệp, quản trị đầu tư để tổng hợp phân tích và xử lý thông tin.

 

* Tính bắt buộc theo luật định:

– Kế toán quản trị không có tính bắt buộc.

– Kế toán tài chính có tính bắt buộc theo luật định. Kế toán tài chính có tính bắt buộc theo luật định có nghĩa là sổ sách báo cáo của kế toán tài chính ở mọi doanh nghiệp đều phải bắt buộc thống nhất, nếu không đúng hoặc không hạch toán đúng chế độ thì báo cáo đó sẽ không được chấp nhận (tham khảo thêm về luật kế toán vừa ban hành).

 

3. KẾ TOÁN TÀI CHÍNH LÀ KẾ TOÁN TỔNG HỢP VÀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ LÀ KẾ TOÁN CHI TIẾT ?

Để hiểu rõ và tránh nhầm lẫn về các “thuật ngữ” trên ta cần phân tích mối quan hệ giữa kế toán tài chính với kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết.

Kế toán tài chính và kế toán tổng hợp: Kế toán tổng hợp là một bộ phận của kế toán tài chính, nhằm trình bày các số liệu báo cáo mang tính tổng hợp về tình hình tài sản, doanh thu chi phí và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một kỳ kế toán vào một thời điểm nhất định. Nói cách khác kế toán tổng hợp chỉ liên quan đến tài khoản của sổ cái tổng hợp và báo cáo tài chính.

 

Kế toán tài chính và kế toán chi tiết:  Kế toán chi tiết là một bộ phận của kế toán tài chính, nhằm chứng minh các số liệu ghi trong tài khoản tổng hợp là đúng trong quá trình ghi chép và lập báo cáo kế toán, đây cũng là công việc phải làm trước khi khoá sổ kế toán để quyết toán.

Thuật ngữ thông thường  gọi là đối chiếu giữa tổng hợp và chi tiết.

Ví dụ: Như việc thực hiện đối chiếu giữa tài khoản phải thu với sổ công nợ chi tiết của từng khách hàng, đối chiếu tài khoản phải trả với sổ chi tiết công nợ của từng nhà cung cấp hay việc đối chiếu tài khoản nguyên vật liệu với sổ chi tiết vật tư, đối chiếu tài khoản chi phí sản xuất kinh doanh dở dang với thẻ chi tiết tính giá thành sản phẩm.

Tóm lại trong kế toán tài chính bao giờ cũng có kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết,

vì vậy kế toán tài chính không phải là kế toán tổng hợp và kế toán quản trị không phải là kế toán chi tiết.

Nguồn: webketoan.com

Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương

I.  Phân loại tiền lương

Doanh nghiệp có nhiều loại lao động khác nhau nên để thuận lợi cho việc quản lý và hạch toán kế toán cần thiết phải tiến hành phân loại theo các nhóm khác nhau.

1.  Phân loại theo thời gian lao động

Thường xuyên: Là toàn bộ tiền lương trả cho những lao động thường xuyên có trong danh sách lương công ty
Lương thời vụ: Là loại tiền lương trả cho người lao động tạm thời mang tính thời vụ.

2.  Phân loại theo quan hệ với quá trình sản xuất

Lương trực tiếp: là phần tiền lương trả cho Lao động trực tiếp sản xuất chính là bộ phận nhân công trực tiếp sản xuất hay trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm và thực hiện các lao vụ dịch vụ.
Lương gián tiếp: là phần lương trả cho người lao động gián tiếp sản xuất, hay là bộ phận lao động tham gia một cách gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như bộ phận quản lý, hành chính, kế toán…

images (17)

II.  Hình thức tiền lương

*  Tiền lương theo thời gian, ngày, tháng, giờ.

Tiền lương theo tháng là tiền lương trả cố định theo tháng cho người làm cố định trên cơ sở hợp đồng, tháng lương, bậc lương cơ bản do nhà nước quy định.
Tiền lương ngày là tiền lương trả cho một ngày làm việc và được xác định bằng cách lấy tiền lương tháng chia cho số ngày làm việc trong tháng theo chế độ.
Tiền lương giờ là tiền lương trả cho một người làm việc và tính bằng cách lấy tiền lương ngày chia cho số giờ làm việc trong ngày.

            *  Tiền lương tính theo sản phẩm

Tiền lương theo sản phẩm trực tiếp là tiền lương phải trả cho người lao động tính trực tiếp cho sản phẩm đã hoàn thành đúng quy cách, chất lượng và đơn giá tiền lương theo sản phẩm quy định.
Tiền lương theo sản phẩm gián tiếp là tiền lương trả cho người lao động ở bộ phận vận hành máy móc hoặc vận chuyển nguyên vật liệu hoặc thành phẩm.
Tiền lương theo sản phẩm có thưởng có phạt là tiền lương trả theo sản phẩm trực tiếp, ngoài ra còn được thưởng về chất lượng tốt, năng suất cao và tiết kiệm vật tư, nhiên liệu, phạt khi bị vi phạm theo các quy định của công ty.

            * Quỹ tiền lương

Là toàn bộ tiền lương phải trả cho người lao động trong thời gian làm việc mà doanh nghiệp đã quy định cho họ theo hợp đồng bao gồm lương chính, phụ cấp các loại.
Tiền lương chính là tiền lương phải trả bao gồm lương cơ bản nhân hệ số tiền lương cộng các khoản phụ cấp theo lương cộng tiền mức thưởng cộng tiền làm thêm giờ.
Tiền lương phụ là tiền lương trả cho người lao động không làm nghiệp vụ chính nhưng vẫn được hưởng lương theo chế độ quy định.

            *Lương làm thêm giờ :

Lương ngoài giờ = Đơn giá lương giờ x Tỉ lệ tính lương ngoài giờ

Đơn giá lương giờ = Tổng lương / 200 giờ

Tỉ lệ lương ngoài giờ làm:

– Ngoài giờ hành chính: 150%

–  Ngày nghỉ (Thứ 7, chủ nhật): 200%

–  Ngày lễ, tết  = 300%

II.  Hạch toán tiền lương

Hàng tháng kế toán căn cứ vào bảng chấm công để tính tiền lương, tiền thưởng và các khoản phụ cấp (lương chính, lương phụ, phụ cấp ăn trưa). Ngoài ra còn căn cứ vào biên bản vào ngừng sản xuất, giấy xin nghỉ phép và một số chứng từ khác.

1.Tài khoản sử dụng:

TK 334 (Phải trả cho người lao động)

TK này dùng để thanh toán cho công nhân viên chức của doanh nghiệp về tiền lương cộng các khoản thu nhập của họ.

Kết cấu Tài khoản

TK 334

– Nợ: Các khoản khấu trừ vào tiền lương, công của người lao động (trừ tiền tạm ứng nếu có) hoặc thanh toán tiền bồi thường thuế TNCN, thu các khoản bảo hiểm theo quy định.

– Số dư Nợ: Trả các khoản cho người lao động
– Tiền lương, tiền công và các khoản phải trả cho công nhân viên

 

2. Chứng từ sử dụng:

– Bảng chấm công

– Bảng thống kê khối lượng sản phẩm

– Đơn giá tiền lương theo sản phẩm

– Biên bản nghiệm thu khối lượng công việc

– Hợp đồng giao khoán

– Danh sách người lao động theo nhóm lao động thời vụ

– Bảng lương đã phê duyệt

– Phiếu chi/ UNC trả lương

– Phiếu lương từng cá nhân

– Bảng tính thuế TNCN

– Bảng tính BHXH, BHYT, BHTN

– Các quyết định lương, tăng lương, quyết định thôi việc, chấm dứt hợp đồng, thanh lý hợp đồng

– Các hồ sơ giấy tờ khác có liên quan

3.Quy trình hạch toán:

Tính tiền lương phải trả trong tháng cho người lao động (TK 334)

 

Tổng số tiền lương bao gồm bảo hiểm, thuế phải trả cho người lao động

Nợ TK 154 (QĐ 48)

Nợ TK 622 (QĐ 15)

Nợ TK 642              6421  (NV bán hàng)

6422 (NV QLDN)

Có TK 334

Trích bảo hiểm các loại theo quy định (tính vào chi phí) 23% lương đóng bảo hiểm (BHXH 17%, BHYT 3%, BHTN 1%, BHCĐ 2%)

Nợ TK 6422

Có TK 3382 (BHCĐ 2%)

Có TK 3383 (BHXH 17%)

Có TK 3384 (BHYT 3%)

Có TK 3389 (BHTN 1%)

Trích bảo hiểm các loại theo quy định và tiền lương của người lao động

Nợ TK 334 (9,5%)

Có TK 3383 (BHXH 7%)

Có TK 3384 (BHYT 1,5%)

Có TK 3389 (BHTN1%)

Nộp các khoản bảo hiểm theo quy định

Nợ TK 3382 (BHCĐ 2%)

Nợ TK 3383 (BHXH 24%)

Nợ TK 3384 (BHYT 4,5%)

Nợ TK 3389 (BHTN 2%)

Có TK 112 (32,5%)

 

Tính thuế thu nhập cá nhân (nếu có)

Nợ TK 334                  Thuế TNCN

Có TK 3335

Thanh toán tiền lương cho công nhân viên

 

 

Số tiền lương phải trả cho người lao động sau khi đã trừ thuế, bảo hiểm và các khoản khác

Nợ TK 334

Có TK 111, 112

 

Tổng tiền thuế đã khấu trừ của người lao động trong tháng hoặc quý

Nộp thuế Thu nhập cá nhân (Hồ sơ khai thuế 02/KK-TNCN, giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước)

Nợ TK 3335

Có TK 111, 112

Nộp BH lên cơ quan bảo hiểm

Nợ TK 3383, 3384, 3389

Có TK 111, 112

Nguồn : ketoanthucte.com

CFO trong thời kỳ khủng hoảng

Một nghiên cứu mới đây của Tập đoàn IBM (2010 Global CFO Study) cho thấy, việc sử dụng năng lực phân tích kinh doanh và thông tin hợp nhất từ các Giám đốc Tài chính (CFO) để hỗ trợ xây dựng chiến lược sẽ giúp doanh nghiệp giành được lợi thế cạnh tranh so với đối thủ. Bởi vậy, việc đánh giá và nhìn nhận đúng vai trò của CFO trong từng thời kỳ sẽ tạo đà cho sự phát triển của mỗi doanh nghiệp.
Không đơn thuần là Giám đốc Tài chính
CFO
Chính việc con tàu kinh tế toàn cầu chòng chành đã hướng sự chú ý của toàn thế giới vào các CFO, đặc biệt là các tổ chức tài chính mà họ đang chèo lái. Giữa lúc cả thế giới đang chìm trong bất ổn thì họ thường xuyên được ban giám đốc mời vào phòng họp để tham gia các cuộc thảo luận nhằm ứng phó với tình hình.
Ông chủ của họ, các CEO, giờ đây không đơn giản chỉ cần những chuyên gia làm việc với các con số, mà quan trọng hơn, họ cần những người có khả năng cung cấp những phân tích, dự báo và giúp xử lý rủi ro trong mọi khía cạnh của hoạt động kinh doanh, từ định giá cho đến sản xuất. Chính bởi vậy, các CFO đang nổi lên với nhiều vai trò và trọng trách hơn bao giờ hết.
Vào những năm 90, vai trò của các CFO chỉ dừng lại ở tư cách là một đối tác kinh doanh giúp các CEO phát triển và thực hiện thành công các chiến lược tăng trưởng. Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính, các CFO cũng chỉ hướng sự quan tâm của họ vào hiệu quả và kiểm soát chi phí. Nhưng trong thời gian suy thoái kinh tế gần đây, dưới tác động từ những thay đổi liên tục của nền kinh tế toàn cầu cũng như những khủng hoảng tài chính liên hoàn tại nhiều nước, các CFO đã chuyển sang những vai trò mới phức tạp và nhiều thách thức hơn bao giờ hết.
Những CFO có kết quả hoạt động vượt trội hơn so với các đồng nghiệp của họ trên mọi chỉ số đánh giá tài chính là những người có khả năng thúc đẩy 2 năng lực chính trong doanh nghiệp: hiệu quả tài chính (khả năng xây dựng được các quy trình và chuẩn dữ liệu đồng nhất có thể sử dụng chung cho các phòng ban trong toàn doanh nghiệp) và thông tin kinh doanh (có được từ độ chín của năng lực tài chính kết hợp với các năng lực phân tích và sử dụng công nghệ hỗ trợ để có thể cung cấp các thông tin chiến lược, tham gia lập kế hoạch và tối ưu hóa các hoạt động kinh doanh).
CFO toàn cầu và CFO ASEAN
Tuy nhiên, cũng theo kết quả nghiên cứu CFO toàn cầu của IBM, có một khoảng cách khá lớn trong hiệu quả làm việc giữa các CFO khu vực ASEAN và các CFO toàn cầu. Các CFO khu vực ASEAN được cho là làm việc kém hiệu quả hơn so với các đồng nghiệp toàn cầu trong việc xử lý và đưa ra các thông tin hỗ trợ hoạt động kinh doanh. Để cải thiện được điều này, họ cần phải thúc đẩy được quá trình hợp nhất thông tin giữa các bộ phận khác nhau trong toàn doanh nghiệp.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, các CFO khu vực ASEAN có tỉ lệ thực hiện các đánh giá tài chính và hiệu quả hoạt động một cách thủ công cao hơn so với các đồng nghiệp toàn cầu của họ. Họ thiếu sự hỗ trợ của CNTT trong việc phân tích, xử lý cũng như hợp nhất thông tin.
Các CFO khu vực ASEAN hiện đang thua kém hơn so với các đồng nghiệp toàn cầu của mình chính bởi mức độ thủ công trong các hoạt động phân tích thông tin khiến hiệu quả hoạt động phân tích và hợp nhất của họ còn chưa cao.
Khủng hoảng kinh tế rồi cũng sẽ qua đi, nhưng có một điều chắc chắn rằng các CFO không thể quay trở lại vai trò của họ thời tiền khủng hoảng, khi mà họ chỉ đơn giản thực hiện chức năng tính toán bù trừ các con số. Kỷ nguyên của các CFO với vai trò “tích hợp giá trị” cho các quyết định mang tính chiến lược của doanh nghiệp đã đến. Nhiệm vụ của các doanh nghiệp trong giai đoạn này là cần phải trang bị đầy đủ cho các CFO của họ các công cụ CNTT hỗ trợ để họ có thể thực hiện những vai trò mới của mình trong giai đoạn kinh tế mới.
Nguồn : webketoan.com

Những sai sót cần tránh trong công tác kế toán tài chính

Làm công tác kế toán như nuôi con mọn, mỗi nghiệp vụ, mỗi quá trình đều cần tới các thủ tục giấy tờ mà nhiều khi người thực hiện không để ý tới hoặc không lường trước, Một sai sót dù rất nhỏ cũng có thể dẫn đến nhiều phiền phức cho doanh nghiệp, thậm chí có thể tiềm ẩn hậu quả rất lớn, bài viết này xin giới thiệu tới bạn đọc những sai sót nho nhỏ cần tránh khi thực hiện tác nghiệp hoặc hoàn thiện các thủ tục chứng từ kế toán.

accountant

Khi mua hoá đơn :

♦ Giấy giới thiệu (GGT)

• Không ghi rõ đến cơ quan thuế để mua hoá đơn (chỉ ghi chung chung đến liên hệ công tác…)

• Các chỉ tiêu như số giấy giới thiệu, ngày, họ tên và chức vụ người được cử đi, tên chữ ký của người ĐDPL, đóng đấu …… không rõ ràng. Nhân viên đến mua hoá đơn :

–  Không mang theo CMND.( Người được giới thiệu )

–  Khi gần hết giờ hành chánh mới đến liên hệ mua hoá đơn .

–  Cử người không hiểu biết về hoá đơn chứng từ (như bảo vệ, tạp vụ, nhân viên trực điện thoại…) đi mua hoá đơn .

–  Không đem theo Phiếu theo dõi tình hình cấp phát hóa đơn ,

–  Không lập báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn ở ký gần nhất .

–  Chưa chuẩn bị con dấu khắc Tên DN , Mã số thuế ) để đóng trên liên 2 Sử dụng hoá đơn :

Khi mua hàng : Không nhận hoá đơn tại nơi xuất hàng mà nhận hoá đơn do người bán đem đến (dễ bị nhận hoá đơn giả).

Khi xuất hàng :

• Không xuất hoá đơn GTGT đối với Hàng hóa Xuất khẩu ,

• Không xuất hoá đơn đối với doanh thu hàng uỷ thác xuất khẩu.

• Không lót giấy carbon giữa các liên.

• Thiếu chữ ký người mua trên hoá đơn.

• Không ghi thuế suất thuế GTGT . Báo cáo sử dụng hoá đơn : Không lập báo cáo sử dụng hoá đơn theo định kỳ.( Tháng , Quý , Năm ) Các bảng kê hoá đơn bán ra, mua vào

• Ghi không đầy đủ cột mục theo qui định.

• Cột ngày chứng từ ghi không theo đúng định dạng 30/01/2002 (ghi sai là 01/30/2002 hoặc 30-Jan-02, 2002-01-30 v.v..)

• Trong bảng kê HHDV bán ra không ghi đúng thứ tự số hoá đơn đã sử dụng, không kê hoá đơn đã huỹ vào bảng kê, đồng thời cũng dễ bị kê khai trùng nhiều lần cho cùng một hoá đơn.

• Không lập bảng kê riêng đối với hàng hoá bán ra không chịu thuế GTGT (như hàng đại lý bán đúng giá)

• Trong bảng kê hoá đơn mua vào không lập bảng kê riêng đối với những hàng hoá dịch vụ phục vụ cho sản xuất, hàng không chịu thuế GTGT.

Kê khai thuế :

♦ Kê khai thuế GTGT hàng tháng

• Thiếu chỉ tiêu 5 (dòng thuế GTGT được khấu trừ)

• Nhầm lẫn giữa các dòng làm sai lệch nội dung của tờ khai.

• Nhân viên kế toán làm cho nhiều công ty khác nhau, khi lập tờ khai bằng máy tính quên thay đổi mã số thuế, tên công ty, địa chỉ …. của công ty.

• Gộp doanh thu và thuế đầu ra của nhiều thuế suất ghi chung vào một dòng

• Không tính gộp cả doanh thu của HHDV không chịu thuế GTGT vào chỉ tiêu 1.

• Cấn trừ số thuế phát sinh âm kỳ này với nợ thuế GTGT chưa nộp của kỳ trước.

• Tính vào số thuế GTGT đầu vào đối với hàng hoá nhập khẩu theo thông báo của Hải Quan, trong khi chưa nộp thuếGTGT hàng nhập khẩu đó.

• Kê khai khấu trừ 3% đối với hàng hoá không thuộc diện chịu thuế GTGT, hoặc hàng hoá thuộc đối tượng chịu thuếtiêu thụ đặc biệt nhưng mua về không phải để bán ra.

• Không tách riêng bảng kê Hàng hóa dịch vụ mua vào có hóa đơn bán hàng được khấu trừ tỷ lệ 3% . Kê khai thuế thu nhập cá nhân hàng tháng đã chặn trừ tại nguồn :

• Hàng tháng đã chặn trừ thuế thu nhập của người lao động nhưng chiếm dụng không kê khai và nộp vào ngân sách kịp thời đúng theo qui định của pháp lệnh thuế thu nhập.

• Những đơn vị có nộp thuế thu nhập cá nhân của người nước ngoài, không lập riêng tờ khai hoặc đã kê khai lẫn lôn giữa người Việt Nam với người nước ngoài.

♦ Kê khai thuế Thu nhập doanh nghiệp hàng năm :

• Không chủ động kê khai đúng thời gian theo qui định của Luật thuế, bị cơ quan thuế nhắc nhở, xử phạt hành chính.

• Đơn vị tính: Nội dung số liệu không tương ứng với đơn vị tính đã ghi bên trên biểu mẫu.

• Không ghi đầy đủ các khoản chi phí theo đúng mẫu qui định.

♦ Quyết toán thuế GTGT năm

• Dòng thuế phải nộp ghi tổng số thuế đầu ra, và dòng thuế đã nộp ghi tổng thuế GTGT đầu vào.

• Dòng thuế đã nộp năm quyết toán : Ghi sai là số đã nộp cho năm báo cáo (bao gồm cả thuế đã nộp vào tháng 1 năm sau nộp cho tháng 12 năm trước). Đúng ra là số đã thực nộp trong năm báo cáo (bao gồm những chứng từ nộp từ ngày 1/1 đến 31/12 của năm báo cáo, không phân biệt nộp cho năm báo cáo hay truy nộp cho các năm trước).

Hồ sơ báo cáo quyết toán thuế :

• Không thiết lập đầy đủ hồ sơ về tài sản cố định, mua sắm TSCĐ không có hoá đơn hợp lệ. – Thiếu bảng đăng ký tiền lương; hạch toán chi phí tiền lương nhưng thiếu hợp đồng lao động; bảng lương không có người ký nhận.

• Thiếu bảng kê hồ sơ quyết toán thuế (liệt kê danh sách hồ sơ đính kèm theo nhằm tránh thất lạc).

• Doanh nghiệp được thụ hưởng chế độ miễn giảm do ưu đãi đầu tư nhưng quên hoặc không biết cách hạch toán và báo cáo quyết toán với cơ quan thuế; hoặc chờ cơ quan thuế đến kiểm tra để xác định số thuế được miễn giảm.

Nộp thuế :

• Ghi nhầm tên người nộp là tên cá nhân đi nộp tiền ( Phải ghi tên pháp nhân Doanh nghiệp ).

• Không nắm rõ các qui định về thời hạn nộp thuế của từng sắc thuế để chủ động nộp trước ngày hết hạn, bị cơ quan thuế nhắc nộp và bị phạt nộp chậm.

• Giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước : Không ghi rõ tài khoản của cơ quan thuế trên giấy nộp tiền, thiếu quan tâm ý nghĩa của những mã hiệu mục lục ngân sách nhà nước có liên quan (cấp, chương, loại, khoản, muc, tiểu mục) để ghi cho đúng.

• Khi phát sinh khoản phải nộp (không thuộc các loại thuế thông thường) đã không lập tờ khai nộp cho cơ quanthuế.

Hạch toán kế toán

• Ngay sau khi lập đề nghị hoàn thuế GTGT, doanh nghiệp đã không hạch toán làm giảm số dư nợ, không hạch toán đồng thời vào tài khoản phải thu phải trã, mà vẫn để số thuế nầy được tiếp tục khấu trừ cho kỳ sau.

• Ngay sau khi nhận được quyết định xử lý, xử phạt… của cơ quan thuế, doanh nghiệp không thực hiện hạch toán ngay vào sổ sách kế toán hiện hành, làm số dư các tài khoản thanh toán với ngân sách khác biệt với sôÌ� liêÌ£u của cơ quan thuế.

• Sổ sách kế toán áp dụng máy vi tính : Định kỳ hàng tháng không in ra toàn bộ sổ sách phát sinh; sổ đã in ra không có số trang, không có giám đốc và kế toán trưởng ký; không tự đóng dấu giáp lai.

Đăng ký thuếThay đổi kế toán trưởng, địa chỉ kinh doanh , tài khoản và ngân hàng , điện thoại, fax, e-mail…. không đăng ký với cơ quan thuế.

Hoàn thuế GTGT

Hồ sơ chứng minh hàng xuất khẩu :

• Không thuyết minh sự sai biệt giữa hoá đơn và tờ khai Hải quan; giữa hoá đơn và chứng từ thanh toán.

• Thiếu chứng từ thanh toán hợp pháp đối với hàng xuất khẩu .

• Không có xác nhận của Hải quan tại ô 47 của tờ khai Hải quan .

Văn thư đề nghị hoàn thuế (mẫu 10/GTGT) không xác định mình thuộc đối tượng cụ thể nào được hoàn thuế (xuất khẩu hay âm luỹ kế 3 tháng v.v…).

Bảng kê khai tổng hợp số thuế phát sinh đề nghị hoàn không khớp với số thuế GTGT đã kê khai hàng tháng (phải điều chỉnh lại số liệu đã kê khai nhầm trước khi lập hồ sơ hoàn thuế).

Phó giám đốc hoặc người được uỷ quyền ký tên vào văn thư đề nghị hoàn thuế GTGT không được xem là hợp lệ.

Tài khoản đề nghị chuyển số tiền thuế GTGT được hoàn không đúng với số hiệu tài khoản và tên ngân hàng đã đăng ký thuế.

Nguồn : Saga.com

Bốn lưu ý khi doanh nghiệp đánh giá chênh lệch tỷ giá

Ngày 24/10, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 179/2012/TT-BTC quy định về ghi nhận, đánh giá, xử lý các khoản chênh lệch tỷ giá hối đoái trong doanh nghiệp, áp dụng cho doanh nghiệp thành lập và hoạt động tại Việt Nam (không áp dụng cho đối với các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng).

johnlacy2

Theo Thông tư 179, doanh nghiệp không được chia lợi nhuận hoặc trả cổ tức trên lãi chênh lệch tỷ giá do đánh giá lại số dư ngoại tệ cuối kỳ kế toán của các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ – Ảnh minh họa.
Thông tư có hiệu lực thi hành từ ngày 10/12/2012, áp dụng từ năm tài chính 2012 và thay thế thông tư số 201/2009/TT-BTC ngày 15/10/2009 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn xử lý các khoản chênh lệch tỷ giá hối đoái trong doanh nghiệp.

Theo đó, Sở Giao dịch Chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh đưa ra 4 lưu ý cho các công ty để thực hiệnthông tư trên.

 

Một là, cuối kỳ kế toán (quý, bán niên, năm), doanh nghiệp phải đánh giá lại số dư tiền mặt, tiền gửi, tiền đang chuyển, các khoản nợ phải thu, nợ phải trả có gốc ngoại tệ ra “đồng Việt Nam”. Khoản chênh lệch tỷ giá hối đoái do việc đánh giá lại số dư cuối kỳ sau khi bù trừ chênh lệch tăng và chênh lệch giảm, số chênh lệch còn lại được hạch toán vào doanh thu hoạt động tài chính hoặc chi phí tài chính trong kỳ.
Hai là, doanh nghiệp không được chia lợi nhuận hoặc trả cổ tức trên lãi chênh lệch tỷ giá do đánh giá lại số dư ngoại tệ cuối kỳ kế toán của các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ.
Ba là, chênh lệch tỷ giá hối đoái do chuyển đổi báo cáo tài chính cơ sở ở nước ngoài sang đơn vị tiền tệ kế toán doanh nghiệp Việt Nam được phản ánh lũy kế, riêng biệt trên bảng cân đối kế toán cho đến khi thanh lý cơ sở ở nước ngoài và khi đó chênh lệch tỷ giá hối đoái sẽ được hạch toán vào doanh thu hoạt động tài chính hoặc chi phí tài chính của doanh nghiệp.
Bốn là, đối với các doanh nghiệp đã đánh giá lại số dư ngoại tệ nợ phải trả cuối năm theo Thông tư 201/2009-TT-BTC ngày 15/10/2009 của Bộ Tài chính mà chênh lệch tỷ giá hối đoái tăng chưa phân bổ hết vào chi phí trong năm thì số dư chưa phân bổ được phân bổ tiếp vào chi phí tài chính của doanh nghiệp, thời gian phân bổ theo số năm còn lại kể từ ngày thông tư có hiệu lực.

 

 

Nguồn: webketoan.com

Hé lộ “chiêu” né thuế 9 tỷ USD của Apple

Apple vừa hoàn tất vụ phát hành trái phiếu kỷ lục, huy động 17 tỷ USD để trả cổ tức dù có “núi” tiền mặt 145 tỷ USD. Theo các chuyên gia đây là bước đi khôn ngoan bởi nó giúp Apple né được tới 9 tỷ USD tiền thuế.

Trước khi tiến hành vụ phát hành trái phiếu đình đám nêu trên, hồi tháng trước Apple đã công bố một chương trình mua lại cổ phiếu kỷ lục với quy mô lên tới 55 tỷ USD. Trong vòng 3 năm tới “gã khổng lồ” ngành công nghệ sẽ chi trả cho các cổ đông tổng cộng 100 tỷ USD.

Apple né được hàng tỷ USD tiền thuế

Apple “né” được hàng tỷ USD tiền thuế

Để tài trợ cho kế hoạch này Apple không dùng tiền mặt sẵn có mà quyết định huy động từ thị trường tài chính dưới hình thức phát hành trái phiếu. Vì sao một tập đoàn dư thừa hàng trăm tỷ USD lại chấp nhận đi vay để thực hiện kế hoạch này? Theo phân tích của các chuyên gia thuế, hiện tại mặc dù Apple có khối tiền mặt dôi dư tới 145 tỷ USD nhưng chỉ có 45 tỷ USD tại Mỹ, còn lại đều ở nước ngoài.

Nếu dùng trực tiếp tiền mặt, số tiền thuế thu nhập doanh nghiệp Apple phải trả cho chính phủ Mỹ sau khi chuyển số lợi nhuận trên từ nước ngoài về sẽ lên tới 9 tỷ USD. Ngoài ra, việc sử dụng nợ thay vì tiền mặt tại quỹ cũng sẽ giúp công ty này tiết kiệm được khoảng 100 triệu USD mỗi năm.

Cho dù khoản vay 17 tỷ USD mới đây khiến mỗi năm Apple phải chi trả khoảng 310 triệu USD tiền lãi, họ vẫn sẽ thu về được khoảng một phần ba số này nhờ được giảm thuế thông qua “lá chắn thuế”.

Một doanh nghiệp khi dùng vốn vay để đầu tư cho hoạt động kinh doanh, khi hạch toán lợi nhuận, khoản lãi vay sẽ được tính vào chi phí hoạt động, giúp giảm thu nhập chịu thuế, qua đó giảm số tiền thuế phải nộp. Trong khi đó nếu sử dụng vốn tự có, doanh nghiệp sẽ không được giảm trừ.

“Với việc dùng vốn vay thay vì chuyển tiền từ nước ngoài về Mỹ, Apple đã tiết kiệm được một khoản thuế khổng lồ”, Kevin Phillips, một chuyên gia thuế quốc tế tại công ty Baker Tilly khẳng định. “Họ sẽ nhận được khoảng 100 triệu USD mỗi năm nhờ được giảm thuế”.

Gerald Granovsky, một nhà phân tích tại hãng xếp hạng tín nhiệm Moody’s cũng khẳng định: “Nếu giả định rằng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 35%, dựa trên những dữ liệu hiện có và những tính toán sơ bộ khác thì để có được số tiền tương ứng 17 tỷ USD tại Mỹ, công ty đó phải chuyển về nước 26 tỷ USD. Điều này rõ ràng không hấp dẫn bằng việc chỉ phải trả 300 triệu USD tiền lãi từ đợt phát hành trái phiếu”.

Apple xuất sắc trong kinh doanh, tài tình trong “né” thuế

Trong một bản báo cáo trình lên Ủy ban chứng khoán và sàn giao dịch Mỹ mới đây, Apple cho biết trong năm 2012 đã trích dự phòng 14 tỷ USD tiền thuế thu nhập trên tổng lợi nhuận trước thuế 55,7 tỷ USD. Điều đó có nghĩa là mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp “trái táo” phải chịu là 25%.
Thu nhập của Apple tại Mỹ đều được chuyển về Braeburn Capital để né thuế
Thu nhập của Apple tại Mỹ đều được chuyển về Braeburn Capital để né thuế

Trong khi đó, vẫn theo bản báo cáo trên, tập đoàn này chỉ trích dự phòng 713 triệu USD cho khoản thuế thu nhập ở nước ngoài trong khi đạt lợi nhuận trước thuế tới 36,8 tỷ USD. Điều đó cho thấy mức thuế suất thuế thu nhập tại nước ngoài họ phải chịu chỉ là 2%.

Theo tìm hiểu của tờ New York Times, để có được mức thuế suất như mơ tại nước ngoài này, một trong những biện pháp chính của Apple là thành lập một công ty con có tên là Braeburn Capital, tại thành phố Reno, bang Nevada, nơi thuế thu nhập doanh nghiệp bằng 0.

Quỹ đầu tư này đã quản lý và đầu tư hầu như toàn bộ nguồn tiền của Apple tại Mỹ cho dù văn phòng chỉ có một nhúm nhân viên với vài chiếc máy tính và được đặt tại một tòa nhà không ai biết đến.

Nhờ thủ thuật này, Apple không phải trả thuế cho bang California, nơi họ đặt tổng hành dinh trong khi các nhân viên vẫn được hưởng phúc lợi từ nguồn thuế của người dân tại bang này. “Trái táo” làm được điều này bởi rất nhiều hàng hóa của họ, như các bài hát, game, ứng dụng…là những sản phẩm vô hình. Họ có thể khai đã bán nó từ bất kỳ đâu. Trong khi đó một chiếc xe hơi nếu bán tại bang nào sẽ phải chịu thuế thu nhập tại bang đó.

Ngoài ra, còn một thủ thuật khác mà họ sử dụng đó là “Nhân đôi Ailen với bánh xăng-uých Hà Lan”. Với phương pháp này, mọi lợi nhuận bên ngoài nước Mỹ của Apple sẽ được chuyển qua các công ty con tại Ailen, sau đó được chuyển tiếp tới Hà Lan và cuối cùng là tới một quốc đảo ở Caribbe.

Tại “thiên đường thuế”, Luxembourg, Apple mở một công ty con có tên iTunes S.à r.l. Công ty này kiểm soát tới 20% doanh số toàn cầu của hãng trong khi chỉ có vài chục nhân viên. Hay như đảo Virgin Island của Anh, một “thiên đường thuế” khác, cũng là đích đến của các khoản doanh thu của tập đoàn này.

Theo dantri

Bí quyết lựa chọn nhà tư vấn tài chính

Tài chính luôn là một trong những vấn đề quan trọng, có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động kinh doanh của công ty. Những ông chủ doanh nghiệp thành đạt luôn có ý thức tìm kiếm các giải pháp tài chính tốt nhất. Đến với các nhà tư vấn chuyên nghiệp là giải pháp khôn ngoan, bởi họ có thể giúp bạn vạch ra những mục tiêu tài chính và chỉ ra các bước đi cần thiết để đạt được chúng.


Nhà tư vấn tài chính sẽ giúp bạn từ việc xây dựng các quy định về trợ cấp, lương thưởng cho nhân viên, phát triển các chiến lược quản lý tài chính đến việc phân tích những biến động đang xảy ra trên thị trường có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, đầu tư của bạn. Trong quá trình làm việc với nhà tư vấn, bạn còn có cơ hội học hỏi thêm kiến thức, và nhận được nhiều lời khuyên về các loại hình đầu tư ít rủi ro mà lại hiệu quả.
Nếu bạn đang có trong tay 2, 3 kế hoạch kinh doanh nhưng vẫn còn phân vân không biết nên chọn kế hoạch nào, nhà tư vấn tài chính sẽ giúp bạn phân tích điểm mạnh, yếu, lợi nhuận và rủi ro của các kế hoạch này. Từ đó, căn cứ vào tình hình tài chính của bạn và những biến động trên thị trường, họ sẽ hướng dẫn bạn quyết định đầu tư duy nhất vào một loại hình, hay chia sẻ vốn vào các lĩnh vực khác nhau, hoặc đừng vội mạo hiểm…
Tuy nhiên, có hàng trăm chuyên gia tài chính trên thị trường – những người luôn sẵn sàng đứng ra giúp bạn quản lý tiền bạc và các khoản đầu tư. Vậy làm thế nào để bạn có thể tìm đúng người tin tưởng? Khi bạn phải lên kế hoạch tài chính, đây lại chính là bước đi đầu tiên và cũng là quan trọng nhất. Dưới đây là 8 yếu tố quan trọng mà bạn sẽ cần phải điều tra để tìm được một nhà tư vấn tài chính thích hợp nhất cho công ty:
1. Những lời giới thiệu & tiến cử 
Trước hết, để tìm được nhanh chóng một nhà tư vấn đáng tin cậy, bạn hãy hỏi gia đình, bạn bè và đồng nghiệp xem họ có đề xuất nào không – sau đó kiểm tra kỹ lưỡng những lời giới thiệu. Một nguồn khác là hỏi luật sư hay kiểm toán viên của công ty. Những chuyên gia này thường làm việc với các nhà tư vấn tài chính vì thế có thể đưa ra những lời khuyên tốt. Những lời giới thiệu và tiến cử của mọi người có thể giúp bạn hiểu được ứng viên mạnh về mặt nào, cũng như phong cách làm việc và mức độ thoả mãn khách hàng của họ.

2. Phẩm chất & năng lực 
Hiện nay ngành tài chính có rất nhiều loại bằng cấp và chức danh khác nhau. Bạn hãy tìm hiểu điều gì đảm bảo chất lượng cho hoạt động tư vấn tài chính. Hơn nữa, nếu tìm được ai đó đã có ít nhất 5 năm tư vấn cho các công ty hoạt động trong cùng lĩnh vực kinh doanh với bạn là rất quan trọng. Đây có thể xem như giá trị hàng đầu đảm bảo cho công việc của họ được tiến hành một cách tốt đẹp trong tương lai. Tìm hiểu cẩn thận về kiến thức của họ, bạn sẽ cảm thấy thoải mái hơn khi phải trả các khoản lương hàng tháng có thể không nhỏ chút nào.
3. Kinh nghiệm & mong muốn 
Trong cuộc gặp mặt đầu tiên với nhà tư vấn tài chính, hãy hỏi họ đã có bao nhiêu năm kinh nghiệm làm việc, số lượng cũng như loại hình các công ty và chủ doanh nghiệp mà nhà tư vấn tài chính đó đã từng cùng làm việc. Bạn cũng cần đề nghị ứng viên miêu tả vắn tắt kinh nghiệm làm việc của họ. Một nhà tư vấn tài chính tin cậy sẽ cung cấp cho bạn đầy đủ các thông tin cần thiết.
Đồng thời, bạn hãy hỏi họ thích làm việc trong lĩnh vực nào nhất và với công ty có quy mô như thế nào.Hiển nhiên, nếu công ty của bạn nằm trong lĩnh vực mà nhà tư vấn mong muốn thì họ sẽ làm việc hiệu quả hơn. Bạn nên yêu cầu nhà tư vấn đưa ra các văn bản ngắn gọn về những việc họ sẽ làm cho công ty của bạn. Trên tư cách là chủ doanh nghiệp, bạn nên quản lý những văn bản này để đảm bảo công việc họ làm xứng đáng với đồng tiền mà bạn trả cho họ.
4. Những dịch vụ cung cấp 
Thứ nhất, bạn hãy kiểm tra xem nhà tư vấn tài chính có quyền được cung cấp các dịnh vụ tư vấn tài chính hay không? Tức là họ có giấy phép hành nghề hoặc tuân thủ một quy trình đăng ký nào đó theo đúng quy định pháp luật quốc gia và địa phương hay không. Thứ hai, không phải tất cả các nhà tư vấn tài chính đều cung cấp các dịch vụ như nhau. Thông thường, các dịch vụ họ đưa ra phụ thuộc vào chuyên môn, kinh nghiệm và năng lực thực tế. Hãy xem xét những dịch vụ mà họ cung cấp xem có phù hợp với yêu cầu của bạn hay không.
5. Phương cách tiếp cận 
Một số nhà tư vấn tài chính sẽ xây dựng một kế hoạch tài chính bằng việc đánh giá tất cả các mục tiêu tài chính của bạn, trong khi một số người khác lại có xu hướng cụ thể hơn. Bạn cần cảm thấy thoải mái với phương cách tiếp cận và làm việc của nhà tư vấn tài chính mà bạn sẽ tuyển dụng. Bạn cũng phải xác định xem liệu có phải chính nhà tư vấn tài chính mà bạn thuê sẽ thực thi các kế hoạch tài chính mà họ đã xây dựng, hay một ai đó khác cùng làm với họ sẽ thực hiện công việc này.
6. Các thành viên tập thể 
Hãy xác định liệu công ty của bạn cần duy nhất một nhà tư vấn, hay một tập thể các nhà tư vấn cùng làm việc? Nếu nhà tư vấn tài chính sẽ phải làm việc với nhiều chuyên gia có chuyên môn khác, chẳng hạn luật sư, kỹ sư,… bạn sẽ phải kiểm tra cả những kiến thức phụ về những mặt này của nhà tư vấn tài chính.

7. Chỉ phí cho các khoản tiền thanh toán và dịch vụ 
Mức chi phí sẽ phụ thuộc vào những nhu cầu cụ thể của bạn. Tuy nhiên, nhà tư vấn tài chính nên cung cấp cho bạn ước lượng các khoản chi phí dự kiến dựa trên số lượng công việc cần hoàn thành. Bạn hãy hỏi xem các khoản phí được xác định dựa trên giờ làm việc của nhà tư vấn, dựa trên công việc tổng thể hay tỷ lệ phần trăm họ sẽ nhận được theo dự án như một khoản hoa hồng. Nhà tư vấn tài chính nên thể hiện cụ thể bằng văn bản các khoản chi phí bạn phải trả để có được dịch vụ họ cung cấp.

8. Quản lý & Kỷ luật công 
Có một vài cơ quan của chính phủ, các tổ chức chuyên nghiệp hay hiệp hội nhà nghề, chẳng hạn hiệp hội Các nhà tư vấn tài chính quốc gia, cục Tài chính doanh nghiệp của chính phủ,… đóng vai trò là cơ quan quản lý, kiểm soát và ghi nhận hoạt động của các nhà tư vấn tài chính. Vì vậy, bạn hãy liên hệ với các cơ quan, tổ chức này và để họ giúp bạn kiểm tra về những nhà tư vấn tài chính mà bạn định tuyển dụng.
Và cuối cùng, bạn đừng cắt đứt quan hệ sau khi công việc của nhà tư vấn tài chính đã hoàn tất. Hãy thường xuyên gặp gỡ và liên lạc để thông báo cho họ biết hoạt động kinh doanh của bạn đang tiến triển như thế nào. Nếu nhà tư vấn tài chính đó không sẵn lòng dành thời gian cho bạn, thì họ không phải là người bạn cần tìm đến trong tương lai. Thông thường, nhà tư vấn tài chính cần có trách nhiệm với công việc của bạn và quan hệ giữa bạn và họ là mối quan hệ đối tác. Họ cần dành thời gian lắng nghe và hiểu mục tiêu, mong ước của bạn. Sau đó, căn cứ trên tình hình tài chính và những thông tin từ bạn, họ sẽ phác thảo ra những chiến lược phù hợp, đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Bạn chắc hẳn muốn họ trở thành một thành viên trong tập thể và quan tâm tới công ty của bạn, chứ không phải là người chỉ quan tâm tới việc làm thế nào để nhận được hợp đồng tiếp theo.
Nếu bạn “sở hữu” trong tay một nhà tư vấn tài chính chuyên nghiệp, có tâm huyết với khách hàng, tức là bạn đã có một nền tảng tốt để bắt tay vào công việc kinh doanh.

Theo PortalO
Theo ketoantruong.com